ĐỊA DANH - NHỮNG TẤM BIA LỊCH SỬ-VĂN HOÁ CỦA ĐẤT NƯỚC
PGS. TS. Lê Trung Hoa
Bộ môn Văn hoá học
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Báo cáo tại Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo bậc sau đại học chuyên ngành văn hóa học” do Bộ môn Văn hóa học tổ chức tháng 1-2006.
Như chúng ta đã biết , địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý nhất định. Do đó, phần lớn địa danh mang dấu ấn của môi trường, thời đại mà nó chào đời. Có người cho rằng địa danh giống như “ vật hoá thạch” [5: 6]; người khác lại cho rằng đấy là những “đài kỷ niệm” [6: 63]. Như vậy, qua địa danh, ta có thể biết một vùng đất, một quốc gia về các mặt địa lý, xã hội, các công trình xây đựng, lịch sử và văn hoá. Địa danh Việt Nam cũng thế.
1.Địa danh phản ảnh điều kiện tự nhiên:
Ra đời trong môi trường nào, địa danh phản ảnh hoàn cảnh địa lý ở đó. Đó là điều tất yếu vì địa danh là sản phẩm của tư duy mà tư duy luôn phản ảnh hiện thực mà nó tiếp nhận. Hiện thực đi vào địa danh có thể chia làm ba phần lớn. Đó là địa hình, thực vật và động vật.
1.1. Địa hình có thể chia làm hai dạng: địa hình cao và địa hình thấp. Địa hình cao gồm: núi, đồi, gò, đống,…Địa hình thấp gồm: sông, biển, hồ, đầm,…Tên địa hình đi vào địa danh trước hết qua các danh từ chung được dùng làm tên gọi các tiểu loại địa danh như núi, gò, sông, rạch,…:núi Tản Viên, gò Cẩm Đệm, sông Đà, rạch Cát,…Nhưng quan trọng hơn là các danh từ chung chỉ tên địa hình đã biến thành một yếu tố của địa danh: tỉnh Sông Bé, huyện Giồng Trôm, cầu Kinh, hồ Ba Bể, huyện Đầm Dơi, xóm Cù Lao, sông Ba Ngòi, vùng Bãi Bằng, bến Phà Rừng, vùng Thác Đài,…
Bên cạnh những từ thuần Việt (hay đã được Việt hoá gần như thuần Việt) chỉ địa hình, còn có nhiều yếu tố Hán Việt cũng chỉ địa hình đã nhập hệ như: sơn (núi), lâm (rừng), cốc (hang), khê (khe), xuyên (sông), chử (bãi biển, bến sông), dương, hải (biển), đàm (đầm),…Các yếu tố này chưa trở thành từ trong tiếng Việt nên không làm tiền từ mà làm thành tố chính đứng cuối địa danh: Trường Sơn, Tiền Giang, Gia Lâm, thôn Sài Đàm, An Khê, Long Xuyên, thôn Phương Chử, Hải Dương,…
Đồng thời, nhiều từ chỉ địa hình thiên nhiên trong các ngôn ngữ thiểu số ở Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ cũng đã đi vào địa danh: rạch (prêk: sông nhỏ), vàm (piêm: ngã ba sông, rạch), đa, đak, ia (nước, sông), chư, ngok, pu/pù (núi), khuổi (suối),… Hầu hết các từ này vừa làm tiền từ vừa làm yếu tố chính đứng trước địa danh: rạch – Rạch Giá; vàm – Vàm Cống; đa, đà, đạ – Đa Nhim, Đà Lạt, Đạ Đờng; đăk – Đăk Lăk; gia – Gia Sô; chư – Chư Sê; ngok – Ngọc Linh; khuổi – Khuổi Cọ; pu – Pu Sam Sao.
1.2. Hình ảnh cây cỏ cũng “ đập” vào giác quan của người Việt như địa hình. Ở TP. Hồ Chí Minh có 273/6.000 địa danh (4,5%) mang tên các loại cây. Tên cây thông thường thì nơi nào cũng đi vào địa danh: cầu Gò Dưa, huyện Gò Dầu, cầu Dừa, Đầm Sen, phường Cây Sung, mương Bần, huyện Giồng Trôm, Hóc Môn, vùng Bồ Đề,…
Ở TP. Hồ Chí Minh, hàng chục tên cây vốn là đặc sản của Nam Bộ đã biến thành địa danh: Củ Chi, ấp Cây Sộp, rạch Cây Bướm, rạch Bông Xeo, rạch Thai Thai (loại bắp ngắn ngày), ấp Thiền Liền (tên một loại ngải),…
Số yếu tố Hán Việt vốn là tên cây cũng đi vào địa danh Việt Nam, nhưng không nhiều: liên (sen), trúc (tre), hoè (cây hoè), ngô đồng (một loại vông). Có lẽ do từ thuần Việt và tên cây thuần Việt dễ hiểu hơn: Liên Chiểu, thôn Trúc Khê, đường Hoè Nhai, xã Ngô Đồng.
Số từ chỉ cây cối trong các ngôn ngữ dân tộc thiểu số gia nhập địa danh Việt Nam nhiều hơn: huyện Cần Giuộc, huyện Thốt Nốt, ấp Cà Săng (Khmer), Nã Cà (cà: cỏ tranh), Co Bây (cây trám đen), Pò Co (co: cây dẻ), Bó Đảy (đảy: cây nứa tép), Lủng Lầu (lầu: cây lau), Nà Thoong (thoong: cây trúc), Cốc Rầy (rầy: cây si), Kơ Lá (cây tre), Tea Plôi (plôi: bầu, bí), Váng Pró (pró: dây tiêu), sông Nậm Rốm (rốm: cây gỗ lát),…
1.3. Tên cầm thú cũng đi vào địa danh khá nhiều. Ở TP. Hồ Chí Minh co,ù153/ 6.000 địa danh (2,5 %).Tên các con vật phổ biến đi vào địa danh ở khắp nơi:rạch Bến Nghé, giồng Chồn, rạch Cá Trê, cù lao Con Cò, rạch Muỗi, rạch Ốc, rỏng Lươn, tắt Quạ, mũi Gành Rái,…Đặc biệt, có những con vật nay không còn sinh hoạt trên địa bàn: tỉnh Đồng Nai, rạch Hóc Hươu, Hố Bò (bò rừng), ngã ba Chó Tru (chó sói), vịnh Sấu, rạch Voi, đèo Cọp,…
Số lượng các từ chỉ cầm thú trong các ngôn ngữ dân tộc thiểu số trở thành yếu tố của địa danh cũng khá phong phú: Cần Đước (rùa), Cần Thay (giống rùa quí), Cần Thơ (cá sặt rằn), rạch Cá Tra (pra), Ktlá (cọp), Kơtéam (cua), Mat (muỗi), Mơngéang (con kiến), Réng (rắn mối), Rơmi (tê giác), Tơkén (kiến đỏ) – địa danh ở Tây Nguyên; Ná Ca (ca: quạ), Pò Chạng (chạng: voi), Khau Mạ (mạ: ngựa), Pác Luồng (luồng: rồng), Dộc Nạn (nạn: con hươu), Lũng Vài (vài: trâu), Lậu Pất (pất: vịt), Nà Quang (quang: nai) – những địa danh ở Việt Bắc và Tây Bắc.
Qua hàng loạt địa danh ở trên, ta có thể nói hầu hết các địa hình, cây cỏ, cầm thú đều hoá thân thành địa danh. Nguồn ngữ liệu phong phú và tiện dụng này giúp cho việc sáng tạo địa danh dễ dàng và bất tận.
2.Địa danh phản ảnh những hoạt động xã hội:
Những hoạt động của con người có quan hệ mật thiết tới địa danh là thành phần dân tộc, tổ chức chính trị và sinh hoạt kinh tế.
2.1. Việt Nam là một nước đa dân tộc. Có 54 dân tộc anh em cộng cư trên mảnh đất này. Như vậy có ít nhất 54 ngôn ngữ khác nhau. Sự phong phú, đa dạng về ngôn ngữ kéo theo sự đa dạng, phong phú về địa danh. Thực trạng này một mặt kích thích sự hứng thú của người nghiên cứu, mặt khác gây khó khăn không ít cho họ.
Riêng từ chỉ địa hình trong địa danh của tất cả các dân tộc ít nhất cũng vài trăm từ – nếu sưu tập đầy đủ. Số lượng từ chỉ cây cỏ, cầm thú nếu thống kê chi tiết chắc chắn không dưới con số nghìn. Địa danh mang tên người trong cả nước chắc chắn trên 10.000 đơn vị. Riêng TP.Hồ Chí Minh có trên 1.000 địa danh loại này: cầu Ông Thìn, giồng Ông Tố, xã Bà Điểm, chợ Bà Chiểu,…
Bên cạnh người Kinh, các dân tộc thiểu số cũng dùng tên người để đặt địa danh, như Trà Ôn (< Tà Ôn: ông Ôn), Nha Mân (Oknha Mân: ông quan Mân), Ba Thê (Tà Thner), Buôn Ma Thuột (làng cha anh Thuột), buôn Hduk (họ Hdơk), buôn Ktla (họ Ktla), Plei Bak (làng ông Bạc),…
2.2. Trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam, qua nhiều lần thay đổi cơ cấu tổ chức hành chính theo từng chế độ, đến nay đã có độ 60 tên gọi đơn vị hành chính khác nhau. Nhiều tên gọi được sử dụng trước kia nay đã bị chìm vào quên lãng, như am, bãi, châu, dinh, doanh, đạo, động, giáp, lân, phủ, tổng, trại, trang, trấn,…Nhưng hàng trăm địa danh vẫn còn bảo lưu các thành tố này: Điện Biên Phủ, dinh Phiên Trấn, huyện Vọng Doanh, huyện Khoái Châu, huyện Giáp Sơn, thôn Sài Trang, xã Thống Trại, phủ Trà Lân, Lục Tổng,…
Nếu kể luôn những địa danh có các thành tố là tên các đơn vị hánh chính còn sử dụng hiện nay thì số lượng còn lớn hơn: vùng Hai Huyện, ngã tư Bốn Xã, cầu Ba Thôn, vùng Tân Ấp, chợ Phường 12,…
2.3.Hoạt động kinh tế của loài người nói chung và người Việt nói riêng chủ yếu nằm trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Hầu như tên sản phẩm của các ngành này đều có đi vào địa danh. Riêng ở TP. Hồ Chí Minh đã có gần 100 địa danh, chủ yếu thành tố là tên sản phẩm đứng sau các từ chợ, hãng, xóm, lò.
Sau Chợ là Đệm, Đũi, Đường, Gạo; từ Hãng kết hợp với Đồng, Nhôm, Phân thành các xóm Hãng Đồng, Hãng Nhôm, cầu Hãng Phân; từ xóm đứng trước các tên sản phẩm: Bún, Chiếu, Cối (xay), Cốm, Củi, Dầu (phụng), Gà (nuôi), Giá (cây giá), Lá (dừa nước), Lụa (dệt lụa), Nước Mắm, Cải, Te (bắt cá), Thơm,… Từ Lò kết hợp với nhiều từ thành địa danh: khu Lò Bún, xóm Lò Chén, chợ Lò Da, Lò Đường, Lò Gạch, Lò Gốm, Lò Heo, Lò Lu, Lò Muối, Lò Siêu, Lò Than, tắt Lò Vôi,…
Qua những địa danh này, ta như thấy xuất hiện trước mắt một bức tranh vô cùng sinh động về đời sống kinh tế của Sài Gòn thời xưa.
3.Công trình xây dựng:
Công trình xây dựng trên đất nước ta có thể chia làm 4 nhóm trong các phạm vi sinh hoạt:
Sinh hoạt cư trú: nha,ø chung cư, cư xá,…
Sinh hoạt kinh tế: ruộng, chợ, lò, phố xá, nông trường,…
Sinh hoạt giao thông: bến (xe, đò), cầu, đường, quán, phà, bắc,…
Sinh hoạt tâm linh: chùa, miếu đình, võ (dỏ), nhà thờ,…
Tên các công trình này đều có gia nhập vào hệ thống địa danh Việt Nam hoặc nhiều hoặc ít.
3.1. Trong nhóm sinh hoạt cư trú, từ nhà đi vào địa danh nhiều hơn cả. Có lẽ do nhà là từ đơn tiết và có từ lâu đời, dễ kết hợp với nhiều từ khác để tạo ra địa danh:Nhà Việc, Nhà Làng, Nhà Vuông (nhà làm việc làng), bến Nhà Rồng, huyện Nhà Bè, phố Nhà Chung, vùng Nhà Đoan (douane: thuế vụ – tiếng Pháp), chợ Nhà Bàng (nhà giã cỏ bàng),…
3.2. Trong sinh hoạt kinh tế, từ chợ chiếm số lượng nhiều hơn hết. Ngoài vai trò tiền từ chỉ tiểu loại, từ chợ còn trở thành yếu tố của hàng trăm địa danh. Sở dĩ có hiện tượng này vì chợ giữ vai tró quan trọng trong nhu cầu sinh sống, trao đổi sản phẩm của con người từ xưa đến nay và chợ là từ đơn tiết dễ kết hợp với một từ đơn tiết khác thành địa danh song tiết: Chợ Bến, Chợ Bờ, Chợ Cháy, Chợ Chu, Chợ Chùa, Chợ Củi, Chợ Đồn, Chợ Gạo, Chợ Giữa, Chợ Lách, Chợ Lầu, Chợ Lớn, Chợ Mới, Chợ Rã, Chợ Vàm,…
3.3. Trong sinh hoạt giao thông, các từ bến, cầu, đường được sử dụng nhiều trong cấu tạo địa danh. Ngoài chức năng làm tiền từ báo hiệu địa danh chỉ các trục giao thông, từ đường còn kết hợp với một số từ khác để trở thành từ ghép rồi biến thành địa danh – nhất là ở Nam Bộ: rạch Đường Chừa, xóm Đường Rầy, xóm Đường Trâu Nhỏ, các rạch Đường Đò, Đường Khai (đường đào cho nước chảy), Đường Đá, Đường Xuồng,…
Bến cũng là một tiền từ, đồng thời là một thành tố của hàng trăm địa danh. Bến ở đây có thể là bến xe, nhưng phổ biến hơn là bến đò, bến sông: Bến Cát, Bến Cầu, Bến Củi, Bến Dược, Bến Đá, Bến Gỗ, Bến Hải, Bến Lức, Bến Nghé, Bến Trạm, Bến Tranh, Bến Tre,…
Cầu vừa là tiền từ vừa là yếu tố của địa danh. Đất nước ta ở vùng mưa nhiều nên lắm sông rạch và vì vậy số lượng cầu khá lớn. Hàng nghìn địa danh mang thành tố này : huyện Sông Cầu, rạch Cầu Bông, chợ Cầu Chàm, sông Cầu Chày, sông Cầu Chầm, phố Cầu Đất, làng Cầu Đơ, thị trấn Cầu Giát, quận Cầu Giấy, chợ Cầu Đông,…
Quán là nơi nghỉ chân, ăn uống của khách đi đường. Trên mỗi con đường, nhất là đường lớn, thường có nhiều quán. Do đó, từ quán trở thành yếu tố của địa danh: đèo Quán Các, đèo Quán Cau, vùng Quán Cháo, xã Quán Chè, vùng Quán Cơm, làng Quán Gánh, vùng Quán Hành, vùng Quán Hàu, vùng Quán Mít, phố Quán Sứ, khu Chợ Quán,…
3.4. Trong sinh hoạt tâm linh, giữa các từ chỉ công trình xây dựng thì chùa, miễu, đình đã đi vào địa danh nhiều hơn cả. Nhà thờ, võ (dỏ) ít hơn.
Ở địa bàn TP.Hồ Chí Minh, có 30 địa danh mang từ chùa: xóm Chùa, cầu Chùa, rạch Chùa, rạch Rỏng Chùa, rạch Tắt Chùa, đồng Chùa Ông,…; 20 địa danh mang từ miếu / miễu: xóm Miễu, rạch Miễu, khu Miễu Nổi, ấp Miễu Ba,…; trên 10 địa danh mang từ đình: rạch Đình, ngã ba Đình, khu Bến Đình, …Đây là những công trình xây dựng phản ánh tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống và dân gian bén rễ trong tâm hồn người Việt lâu đời trên khắp đất nước từ Nam chí Bắc.
4.Lịch sử phát triển:
Qua hàng chục vạn địa danh, ta có thể biết và nhớ đến hàng trăm sự kiện lịch sử , hàng nghìn nhân vật lịch sử đã sinh sống, đóng góp cho quê hương, đất nước tồn tại và phát triển.
4.1. Các địa danh Mê Linh, Bạch Đằng, Hoa Lư, Chương Dương, Hàm Tử, Đống Đa, Ba Tơ, Bắc Sơn,…vốn là những địa danh bình thường như những địa danh khác.Nhưng vì gắn với những sự kiện lịch sử vẻ vang của dân tộc , chúng đã hoá thân thành hàng trăm địa danh trong các tên đường, tên cầu, tên bến, tên công viên, tên quảng trường,…nhắc chúng ta nhớ đến cuộc khởi nghĩa oai hùng của Hai Bà Trưng, chiến công oanh liệt của Ngô Quyền, công lao thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh, những chiến tích hiển hách của của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Quang Trung Nguyễn Huệ, ý chí bất khuất của Trương Định, của nhân dân Việt Nam dưới thời Bắc thuộc và Pháp thuộc. Đó là những biến cố chính trị. Những tên đường Đông Sơn, Mạc Vân, Bình Dương Thi xã, công viên Tao Đàn, phản ảnh những sự kiện văn hoá đáng tư hào về nền văn minh cổ đại, về nền văn học của dân tộc ta.
4.2.Bên cạnh những sự kiện lịch sử, văn hoá, còn có tên hàng nghìn nhân vật lịch sử đã hoá thân thành địa danh. Ta có thể chia nhân vật lịch sử làm hai loại: danh nhân và nhân vật dân gian.
Danh nhân có thể chia làm ba loại chính:
Danh nhân chính trị: Hai Bà Trưng, Lý Thái Tổ, Lê Lợi, Hàm Nghi, Phan Bội Châu,…
Danh nhân quân sự: Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hoàng Hoa Thám,…
Danh nhân văn hoá: Nguyễn Trãi, Lê Quí Đôn, Nguyễn Du, Phan huy Chú, Nguyễn Đình Chiểu,…
Tên các danh nhân này đã biến thành hàng nghìn địa danh đường phố ở khắp đất nước, trở thành niềm tự hào của cả dân tộc qua nhiều thế hệ.
Riêng ở TP. Hồ Chí Minh đã có trên 500 tên nhân vật dân gian trở thành địa danh: khu Ông Tạ, kinh Ông Cả, cầu Ông Cậy, rạch Ông Cốm, kinh Thầy Cai, …rạch Bà Ba, rạch Bà Bộ, rạch Bà Bông, cầu Bà Cả, cầu Bà Đô, xã Bà Điểm, chợ Bà Chiểu, đường Bà Hạt, huyện Thủ Đức,…
Họ là những người có công đóng góp cho sự phát triển cho làng xã nên đã được nhân dân ghi nhớ bằng cách biến tên họ thành địa danh.
4.3.Ngoài ra, một số địa danh đã thông báo cho chúng ta nhiều chức danh đã xuất hiện dưới chế độ phong kiến , ngày nay không còn nữa.
Trước hết là những chức danh có liên hệ tới giáo duc.
Học: từ gọi tắt của học sinh (học trò được tuyển vào trường lớn có được hưởng học bổng): đường Học Lạc.
Nhiêu: từ gọi tắt của nhiêu học, chức vụ được miễn tạp dịch, phải bỏ tiền mua, ở làng xã thời phong kiến: rạch Nhiêu Lộc, đường Nhiêu Tâm, cầu và rạch Ông Nhiêu.
Cống: từ gọi tắt của hương cống , học vị ở đời Lê (tương đương với cử nhân đời Nguyễn): đường Cống Quỳnh.
Kế đến là các chức danh trong lĩnh vực hành chính :
Câu đương: chức coi sóc các việc trong làng: Câu Lãnh sau nói và viết chệch thành Cao Lãnh.
Trùm: ngưòi đứng đầu một phe giáp, một phường hội thời phong kiến: cầu Trùm Bích, chợ Trùm Rìu, ấp Trùm Tri, cầu Trùm Điếu.
Tổng: từ gọi tắt của cai tổng hoặc chánh tổng, người đứng đầu một tổng (gồm một số xã): rạch Tổng Thể.
Phán: từ gọi tắt của thông phán, thư ký các ngành ở cơ quan nhà nước thời Pháp thuộc: khu Phán Hùng.
Huyện: từ gọi tắt của tri huyện, người cai quản một huyện: cầu Huyện Thanh, cầu Ông Huyện, đường Bà Huyện Thanh Quan,…
Nha: từ gọi tắt của Oknha (tiếng Khmer), một quan chức đầu tỉnh: Nha Mân (Mân: tên người).
Sau cùng là các chức danh trong quân đội:
Cai: một chức trong binh đội, trên bếp dưới đội: rạch Cai Tam, ngã ba Cai Tâm, rạch Cai Trung, rạch Cai Dược Một, rạch Cai Dược Hai.
Đội: chức vụ trong quân đội thơiø Pháp thuộc, tương đương tiểu đội trưởng: rạch Ông Đội, hẻm Đội Có.
Thủ: từ gọi tắt của thủ ngữ, chức vụ trưởng một thủ , có nhiệm vụ giữ an ninh và thu thuế: Thủ Đức, Thủ Thừa, Thủ Thiêm, Thủ Đoàn,…
Cơ: đơn vị quân đội địa phương thời phong kiến số quân không nhất định (có khi mười người, có khi ba bốn trăm người): đường Phó Cơ Điều.
Tham tướng: phó tướng, chức quan võ chỉ huy quân một khu, một lộ hay một dinh (địa vị dưới tổng binh và phó tổng binh): khu Tham Tướng.
Lãnh binh: chức quan võ nắm quân đội cấp tỉnh thời Nguyễn: đường Lãnh binh Thăng (tức Nguyễn Ngọc Thăng: 1798 - 1866).
Đề: từ gọi tắt của đề đốc , chức quan võ chỉ huy quân đội một tỉnh thời Nguyễn: đường Đề Thám.
Qua các phần trình bày trên, ta thấy địa danh giống như những tấm gương phản ảnh một cách trung thực môi trường sống, những sinh hoạt, những ứng xử của con người trên địa bàn đối với thiên nhiên cũng như xã hội. Vì vậy, muốn tìm hiểu một địa phương, một đất nước, chúng ta không thể không quan tâm đến địa danh.
Tài liệu tham khảo
1.Hoàng Văn Ma, Về địa danh vùng Tày Nùng, trong “Những vấn đề ngôn ngữ học”, Hà Nội, Viện Ngôn ngữ học, 2001.
2.Lê Trung Hoa, Điạ danh ở Tây Nguyên, Xưa và Nay, số 126, th. 10 –2002, tr.21-23.
3.Lê Trung Hoa, Địa danh Chăm và gốc Chăm ở Trung Bộ, Xưa và Nay, số 127, th. 11- 2002, tr. 15-16.
4.Lê Trung Hoa, Địa danh Khmer và gốc Khmer ở Nam Bộ, trong “Khoa học xã hội và nhân văn trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Trường KHXH-NV và Nxb TPHCM, 2003, 369-377.
5.Rostaing, Ch., Les noms de lieux, Paris, P.U.F. , 1965.
6.Smolisnaja,G.L.và Gorbanevskij, M.V. Toponimija Moskvy (Địa danh Moskva), Moskva, Nauka,1982
Nguồn: Tác giả + Văn hoá học
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/76-le-trung-hoa-dia-danh-nhung-tam-bia-lich-su-van-hoa-cua-dat-nuoc.html
### ĐỊA DANH - NHỮNG TẤM BIA LỊCH SỬ-VĂN HOÁ CỦA ĐẤT NƯỚC
#### PGS. TS. Lê Trung Hoa
Bộ môn Văn hoá học
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Báo cáo tại Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng đào tạo bậc sau đại học chuyên ngành văn hóa học” do Bộ môn Văn hóa học tổ chức tháng 1-2006.
---
Như chúng ta đã biết , địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý nhất định. Do đó, phần lớn địa danh mang dấu ấn của môi trường, thời đại mà nó chào đời. Có người cho rằng địa danh giống như “ vật hoá thạch” [5: 6]; người khác lại cho rằng đấy là những “đài kỷ niệm” [6: 63]. Như vậy, qua địa danh, ta có thể biết một vùng đất, một quốc gia về các mặt địa lý, xã hội, các công trình xây đựng, lịch sử và văn hoá. Địa danh Việt Nam cũng thế.
1.Địa danh phản ảnh điều kiện tự nhiên:
Ra đời trong môi trường nào, địa danh phản ảnh hoàn cảnh địa lý ở đó. Đó là điều tất yếu vì địa danh là sản phẩm của tư duy mà tư duy luôn phản ảnh hiện thực mà nó tiếp nhận. Hiện thực đi vào địa danh có thể chia làm ba phần lớn. Đó là địa hình, thực vật và động vật.
1.1. Địa hình có thể chia làm hai dạng: địa hình cao và địa hình thấp. Địa hình cao gồm: núi, đồi, gò, đống,…Địa hình thấp gồm: sông, biển, hồ, đầm,…Tên địa hình đi vào địa danh trước hết qua các danh từ chung được dùng làm tên gọi các tiểu loại địa danh như núi, gò, sông, rạch,…:núi Tản Viên, gò Cẩm Đệm, sông Đà, rạch Cát,…Nhưng quan trọng hơn là các danh từ chung chỉ tên địa hình đã biến thành một yếu tố của địa danh: tỉnh Sông Bé, huyện Giồng Trôm, cầu Kinh, hồ Ba Bể, huyện Đầm Dơi, xóm Cù Lao, sông Ba Ngòi, vùng Bãi Bằng, bến Phà Rừng, vùng Thác Đài,…
Bên cạnh những từ thuần Việt (hay đã được Việt hoá gần như thuần Việt) chỉ địa hình, còn có nhiều yếu tố Hán Việt cũng chỉ địa hình đã nhập hệ như: sơn (núi), lâm (rừng), cốc (hang), khê (khe), xuyên (sông), chử (bãi biển, bến sông), dương, hải (biển), đàm (đầm),…Các yếu tố này chưa trở thành từ trong tiếng Việt nên không làm tiền từ mà làm thành tố chính đứng cuối địa danh: Trường Sơn, Tiền Giang, Gia Lâm, thôn Sài Đàm, An Khê, Long Xuyên, thôn Phương Chử, Hải Dương,…
Đồng thời, nhiều từ chỉ địa hình thiên nhiên trong các ngôn ngữ thiểu số ở Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên và Nam Bộ cũng đã đi vào địa danh: rạch (prêk: sông nhỏ), vàm (piêm: ngã ba sông, rạch), đa, đak, ia (nước, sông), chư, ngok, pu/pù (núi), khuổi (suối),… Hầu hết các từ này vừa làm tiền từ vừa làm yếu tố chính đứng trước địa danh: rạch – Rạch Giá; vàm – Vàm Cống; đa, đà, đạ – Đa Nhim, Đà Lạt, Đạ Đờng; đăk – Đăk Lăk; gia – Gia Sô; chư – Chư Sê; ngok – Ngọc Linh; khuổi – Khuổi Cọ; pu – Pu Sam Sao.
1.2. Hình ảnh cây cỏ cũng “ đập” vào giác quan của người Việt như địa hình. Ở TP. Hồ Chí Minh có 273/6.000 địa danh (4,5%) mang tên các loại cây. Tên cây thông thường thì nơi nào cũng đi vào địa danh: cầu Gò Dưa, huyện Gò Dầu, cầu Dừa, Đầm Sen, phường Cây Sung, mương Bần, huyện Giồng Trôm, Hóc Môn, vùng Bồ Đề,…
Ở TP. Hồ Chí Minh, hàng chục tên cây vốn là đặc sản của Nam Bộ đã biến thành địa danh: Củ Chi, ấp Cây Sộp, rạch Cây Bướm, rạch Bông Xeo, rạch Thai Thai (loại bắp ngắn ngày), ấp Thiền Liền (tên một loại ngải),…
Số yếu tố Hán Việt vốn là tên cây cũng đi vào địa danh Việt Nam, nhưng không nhiều: liên (sen), trúc (tre), hoè (cây hoè), ngô đồng (một loại vông). Có lẽ do từ thuần Việt và tên cây thuần Việt dễ hiểu hơn: Liên Chiểu, thôn Trúc Khê, đường Hoè Nhai, xã Ngô Đồng.
Số từ chỉ cây cối trong các ngôn ngữ dân tộc thiểu số gia nhập địa danh Việt Nam nhiều hơn: huyện Cần Giuộc, huyện Thốt Nốt, ấp Cà Săng (Khmer), Nã Cà (cà: cỏ tranh), Co Bây (cây trám đen), Pò Co (co: cây dẻ), Bó Đảy (đảy: cây nứa tép), Lủng Lầu (lầu: cây lau), Nà Thoong (thoong: cây trúc), Cốc Rầy (rầy: cây si), Kơ Lá (cây tre), Tea Plôi (plôi: bầu, bí), Váng Pró (pró: dây tiêu), sông Nậm Rốm (rốm: cây gỗ lát),…
1.3. Tên cầm thú cũng đi vào địa danh khá nhiều. Ở TP. Hồ Chí Minh co,ù153/ 6.000 địa danh (2,5 %).Tên các con vật phổ biến đi vào địa danh ở khắp nơi:rạch Bến Nghé, giồng Chồn, rạch Cá Trê, cù lao Con Cò, rạch Muỗi, rạch Ốc, rỏng Lươn, tắt Quạ, mũi Gành Rái,…Đặc biệt, có những con vật nay không còn sinh hoạt trên địa bàn: tỉnh Đồng Nai, rạch Hóc Hươu, Hố Bò (bò rừng), ngã ba Chó Tru (chó sói), vịnh Sấu, rạch Voi, đèo Cọp,…
Số lượng các từ chỉ cầm thú trong các ngôn ngữ dân tộc thiểu số trở thành yếu tố của địa danh cũng khá phong phú: Cần Đước (rùa), Cần Thay (giống rùa quí), Cần Thơ (cá sặt rằn), rạch Cá Tra (pra), Ktlá (cọp), Kơtéam (cua), Mat (muỗi), Mơngéang (con kiến), Réng (rắn mối), Rơmi (tê giác), Tơkén (kiến đỏ) – địa danh ở Tây Nguyên; Ná Ca (ca: quạ), Pò Chạng (chạng: voi), Khau Mạ (mạ: ngựa), Pác Luồng (luồng: rồng), Dộc Nạn (nạn: con hươu), Lũng Vài (vài: trâu), Lậu Pất (pất: vịt), Nà Quang (quang: nai) – những địa danh ở Việt Bắc và Tây Bắc.
Qua hàng loạt địa danh ở trên, ta có thể nói hầu hết các địa hình, cây cỏ, cầm thú đều hoá thân thành địa danh. Nguồn ngữ liệu phong phú và tiện dụng này giúp cho việc sáng tạo địa danh dễ dàng và bất tận.
2.Địa danh phản ảnh những hoạt động xã hội:
Những hoạt động của con người có quan hệ mật thiết tới địa danh là thành phần dân tộc, tổ chức chính trị và sinh hoạt kinh tế.
2.1. Việt Nam là một nước đa dân tộc. Có 54 dân tộc anh em cộng cư trên mảnh đất này. Như vậy có ít nhất 54 ngôn ngữ khác nhau. Sự phong phú, đa dạng về ngôn ngữ kéo theo sự đa dạng, phong phú về địa danh. Thực trạng này một mặt kích thích sự hứng thú của người nghiên cứu, mặt khác gây khó khăn không ít cho họ.
Riêng từ chỉ địa hình trong địa danh của tất cả các dân tộc ít nhất cũng vài trăm từ – nếu sưu tập đầy đủ. Số lượng từ chỉ cây cỏ, cầm thú nếu thống kê chi tiết chắc chắn không dưới con số nghìn. Địa danh mang tên người trong cả nước chắc chắn trên 10.000 đơn vị. Riêng TP.Hồ Chí Minh có trên 1.000 địa danh loại này: cầu Ông Thìn, giồng Ông Tố, xã Bà Điểm, chợ Bà Chiểu,…
Bên cạnh người Kinh, các dân tộc thiểu số cũng dùng tên người để đặt địa danh, như Trà Ôn (< Tà Ôn: ông Ôn), Nha Mân (Oknha Mân: ông quan Mân), Ba Thê (Tà Thner), Buôn Ma Thuột (làng cha anh Thuột), buôn Hduk (họ Hdơk), buôn Ktla (họ Ktla), Plei Bak (làng ông Bạc),…
2.2. Trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam, qua nhiều lần thay đổi cơ cấu tổ chức hành chính theo từng chế độ, đến nay đã có độ 60 tên gọi đơn vị hành chính khác nhau. Nhiều tên gọi được sử dụng trước kia nay đã bị chìm vào quên lãng, như am, bãi, châu, dinh, doanh, đạo, động, giáp, lân, phủ, tổng, trại, trang, trấn,…Nhưng hàng trăm địa danh vẫn còn bảo lưu các thành tố này: Điện Biên Phủ, dinh Phiên Trấn, huyện Vọng Doanh, huyện Khoái Châu, huyện Giáp Sơn, thôn Sài Trang, xã Thống Trại, phủ Trà Lân, Lục Tổng,…
Nếu kể luôn những địa danh có các thành tố là tên các đơn vị hánh chính còn sử dụng hiện nay thì số lượng còn lớn hơn: vùng Hai Huyện, ngã tư Bốn Xã, cầu Ba Thôn, vùng Tân Ấp, chợ Phường 12,…
2.3.Hoạt động kinh tế của loài người nói chung và người Việt nói riêng chủ yếu nằm trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Hầu như tên sản phẩm của các ngành này đều có đi vào địa danh. Riêng ở TP. Hồ Chí Minh đã có gần 100 địa danh, chủ yếu thành tố là tên sản phẩm đứng sau các từ chợ, hãng, xóm, lò.
Sau Chợ là Đệm, Đũi, Đường, Gạo; từ Hãng kết hợp với Đồng, Nhôm, Phân thành các xóm Hãng Đồng, Hãng Nhôm, cầu Hãng Phân; từ xóm đứng trước các tên sản phẩm: Bún, Chiếu, Cối (xay), Cốm, Củi, Dầu (phụng), Gà (nuôi), Giá (cây giá), Lá (dừa nước), Lụa (dệt lụa), Nước Mắm, Cải, Te (bắt cá), Thơm,… Từ Lò kết hợp với nhiều từ thành địa danh: khu Lò Bún, xóm Lò Chén, chợ Lò Da, Lò Đường, Lò Gạch, Lò Gốm, Lò Heo, Lò Lu, Lò Muối, Lò Siêu, Lò Than, tắt Lò Vôi,…
Qua những địa danh này, ta như thấy xuất hiện trước mắt một bức tranh vô cùng sinh động về đời sống kinh tế của Sài Gòn thời xưa.
3.Công trình xây dựng:
Công trình xây dựng trên đất nước ta có thể chia làm 4 nhóm trong các phạm vi sinh hoạt:
- Sinh hoạt cư trú: nha,ø chung cư, cư xá,…
- Sinh hoạt kinh tế: ruộng, chợ, lò, phố xá, nông trường,…
- Sinh hoạt giao thông: bến (xe, đò), cầu, đường, quán, phà, bắc,…
- Sinh hoạt tâm linh: chùa, miếu đình, võ (dỏ), nhà thờ,…
Tên các công trình này đều có gia nhập vào hệ thống địa danh Việt Nam hoặc nhiều hoặc ít.
3.1. Trong nhóm sinh hoạt cư trú, từ nhà đi vào địa danh nhiều hơn cả. Có lẽ do nhà là từ đơn tiết và có từ lâu đời, dễ kết hợp với nhiều từ khác để tạo ra địa danh:Nhà Việc, Nhà Làng, Nhà Vuông (nhà làm việc làng), bến Nhà Rồng, huyện Nhà Bè, phố Nhà Chung, vùng Nhà Đoan (douane: thuế vụ – tiếng Pháp), chợ Nhà Bàng (nhà giã cỏ bàng),…
3.2. Trong sinh hoạt kinh tế, từ chợ chiếm số lượng nhiều hơn hết. Ngoài vai trò tiền từ chỉ tiểu loại, từ chợ còn trở thành yếu tố của hàng trăm địa danh. Sở dĩ có hiện tượng này vì chợ giữ vai tró quan trọng trong nhu cầu sinh sống, trao đổi sản phẩm của con người từ xưa đến nay và chợ là từ đơn tiết dễ kết hợp với một từ đơn tiết khác thành địa danh song tiết: Chợ Bến, Chợ Bờ, Chợ Cháy, Chợ Chu, Chợ Chùa, Chợ Củi, Chợ Đồn, Chợ Gạo, Chợ Giữa, Chợ Lách, Chợ Lầu, Chợ Lớn, Chợ Mới, Chợ Rã, Chợ Vàm,…
3.3. Trong sinh hoạt giao thông, các từ bến, cầu, đường được sử dụng nhiều trong cấu tạo địa danh. Ngoài chức năng làm tiền từ báo hiệu địa danh chỉ các trục giao thông, từ đường còn kết hợp với một số từ khác để trở thành từ ghép rồi biến thành địa danh – nhất là ở Nam Bộ: rạch Đường Chừa, xóm Đường Rầy, xóm Đường Trâu Nhỏ, các rạch Đường Đò, Đường Khai (đường đào cho nước chảy), Đường Đá, Đường Xuồng,…
Bến cũng là một tiền từ, đồng thời là một thành tố của hàng trăm địa danh. Bến ở đây có thể là bến xe, nhưng phổ biến hơn là bến đò, bến sông: Bến Cát, Bến Cầu, Bến Củi, Bến Dược, Bến Đá, Bến Gỗ, Bến Hải, Bến Lức, Bến Nghé, Bến Trạm, Bến Tranh, Bến Tre,…
Cầu vừa là tiền từ vừa là yếu tố của địa danh. Đất nước ta ở vùng mưa nhiều nên lắm sông rạch và vì vậy số lượng cầu khá lớn. Hàng nghìn địa danh mang thành tố này : huyện Sông Cầu, rạch Cầu Bông, chợ Cầu Chàm, sông Cầu Chày, sông Cầu Chầm, phố Cầu Đất, làng Cầu Đơ, thị trấn Cầu Giát, quận Cầu Giấy, chợ Cầu Đông,…
Quán là nơi nghỉ chân, ăn uống của khách đi đường. Trên mỗi con đường, nhất là đường lớn, thường có nhiều quán. Do đó, từ quán trở thành yếu tố của địa danh: đèo Quán Các, đèo Quán Cau, vùng Quán Cháo, xã Quán Chè, vùng Quán Cơm, làng Quán Gánh, vùng Quán Hành, vùng Quán Hàu, vùng Quán Mít, phố Quán Sứ, khu Chợ Quán,…
3.4. Trong sinh hoạt tâm linh, giữa các từ chỉ công trình xây dựng thì chùa, miễu, đình đã đi vào địa danh nhiều hơn cả. Nhà thờ, võ (dỏ) ít hơn.
Ở địa bàn TP.Hồ Chí Minh, có 30 địa danh mang từ chùa: xóm Chùa, cầu Chùa, rạch Chùa, rạch Rỏng Chùa, rạch Tắt Chùa, đồng Chùa Ông,…; 20 địa danh mang từ miếu / miễu: xóm Miễu, rạch Miễu, khu Miễu Nổi, ấp Miễu Ba,…; trên 10 địa danh mang từ đình: rạch Đình, ngã ba Đình, khu Bến Đình, …Đây là những công trình xây dựng phản ánh tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống và dân gian bén rễ trong tâm hồn người Việt lâu đời trên khắp đất nước từ Nam chí Bắc.
4.Lịch sử phát triển:
Qua hàng chục vạn địa danh, ta có thể biết và nhớ đến hàng trăm sự kiện lịch sử , hàng nghìn nhân vật lịch sử đã sinh sống, đóng góp cho quê hương, đất nước tồn tại và phát triển.
4.1. Các địa danh Mê Linh, Bạch Đằng, Hoa Lư, Chương Dương, Hàm Tử, Đống Đa, Ba Tơ, Bắc Sơn,…vốn là những địa danh bình thường như những địa danh khác.Nhưng vì gắn với những sự kiện lịch sử vẻ vang của dân tộc , chúng đã hoá thân thành hàng trăm địa danh trong các tên đường, tên cầu, tên bến, tên công viên, tên quảng trường,…nhắc chúng ta nhớ đến cuộc khởi nghĩa oai hùng của Hai Bà Trưng, chiến công oanh liệt của Ngô Quyền, công lao thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh, những chiến tích hiển hách của của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Quang Trung Nguyễn Huệ, ý chí bất khuất của Trương Định, của nhân dân Việt Nam dưới thời Bắc thuộc và Pháp thuộc. Đó là những biến cố chính trị. Những tên đường Đông Sơn, Mạc Vân, Bình Dương Thi xã, công viên Tao Đàn, phản ảnh những sự kiện văn hoá đáng tư hào về nền văn minh cổ đại, về nền văn học của dân tộc ta.
4.2.Bên cạnh những sự kiện lịch sử, văn hoá, còn có tên hàng nghìn nhân vật lịch sử đã hoá thân thành địa danh. Ta có thể chia nhân vật lịch sử làm hai loại: danh nhân và nhân vật dân gian.
Danh nhân có thể chia làm ba loại chính:
- Danh nhân chính trị: Hai Bà Trưng, Lý Thái Tổ, Lê Lợi, Hàm Nghi, Phan Bội Châu,…
- Danh nhân quân sự: Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hoàng Hoa Thám,…
- Danh nhân văn hoá: Nguyễn Trãi, Lê Quí Đôn, Nguyễn Du, Phan huy Chú, Nguyễn Đình Chiểu,…
Tên các danh nhân này đã biến thành hàng nghìn địa danh đường phố ở khắp đất nước, trở thành niềm tự hào của cả dân tộc qua nhiều thế hệ.
Riêng ở TP. Hồ Chí Minh đã có trên 500 tên nhân vật dân gian trở thành địa danh: khu Ông Tạ, kinh Ông Cả, cầu Ông Cậy, rạch Ông Cốm, kinh Thầy Cai, …rạch Bà Ba, rạch Bà Bộ, rạch Bà Bông, cầu Bà Cả, cầu Bà Đô, xã Bà Điểm, chợ Bà Chiểu, đường Bà Hạt, huyện Thủ Đức,…
Họ là những người có công đóng góp cho sự phát triển cho làng xã nên đã được nhân dân ghi nhớ bằng cách biến tên họ thành địa danh.
4.3.Ngoài ra, một số địa danh đã thông báo cho chúng ta nhiều chức danh đã xuất hiện dưới chế độ phong kiến , ngày nay không còn nữa.
Trước hết là những chức danh có liên hệ tới giáo duc.
Học: từ gọi tắt của học sinh (học trò được tuyển vào trường lớn có được hưởng học bổng): đường Học Lạc.
Nhiêu: từ gọi tắt của nhiêu học, chức vụ được miễn tạp dịch, phải bỏ tiền mua, ở làng xã thời phong kiến: rạch Nhiêu Lộc, đường Nhiêu Tâm, cầu và rạch Ông Nhiêu.
Cống: từ gọi tắt của hương cống , học vị ở đời Lê (tương đương với cử nhân đời Nguyễn): đường Cống Quỳnh.
Kế đến là các chức danh trong lĩnh vực hành chính :
Câu đương: chức coi sóc các việc trong làng: Câu Lãnh sau nói và viết chệch thành Cao Lãnh.
Trùm: ngưòi đứng đầu một phe giáp, một phường hội thời phong kiến: cầu Trùm Bích, chợ Trùm Rìu, ấp Trùm Tri, cầu Trùm Điếu.
Tổng: từ gọi tắt của cai tổng hoặc chánh tổng, người đứng đầu một tổng (gồm một số xã): rạch Tổng Thể.
Phán: từ gọi tắt của thông phán, thư ký các ngành ở cơ quan nhà nước thời Pháp thuộc: khu Phán Hùng.
Huyện: từ gọi tắt của tri huyện, người cai quản một huyện: cầu Huyện Thanh, cầu Ông Huyện, đường Bà Huyện Thanh Quan,…
Nha: từ gọi tắt của Oknha (tiếng Khmer), một quan chức đầu tỉnh: Nha Mân (Mân: tên người).
Sau cùng là các chức danh trong quân đội:
Cai: một chức trong binh đội, trên bếp dưới đội: rạch Cai Tam, ngã ba Cai Tâm, rạch Cai Trung, rạch Cai Dược Một, rạch Cai Dược Hai.
Đội: chức vụ trong quân đội thơiø Pháp thuộc, tương đương tiểu đội trưởng: rạch Ông Đội, hẻm Đội Có.
Thủ: từ gọi tắt của thủ ngữ, chức vụ trưởng một thủ , có nhiệm vụ giữ an ninh và thu thuế: Thủ Đức, Thủ Thừa, Thủ Thiêm, Thủ Đoàn,…
Cơ: đơn vị quân đội địa phương thời phong kiến số quân không nhất định (có khi mười người, có khi ba bốn trăm người): đường Phó Cơ Điều.
Tham tướng: phó tướng, chức quan võ chỉ huy quân một khu, một lộ hay một dinh (địa vị dưới tổng binh và phó tổng binh): khu Tham Tướng.
Lãnh binh: chức quan võ nắm quân đội cấp tỉnh thời Nguyễn: đường Lãnh binh Thăng (tức Nguyễn Ngọc Thăng: 1798 - 1866).
Đề: từ gọi tắt của đề đốc , chức quan võ chỉ huy quân đội một tỉnh thời Nguyễn: đường Đề Thám.
Qua các phần trình bày trên, ta thấy địa danh giống như những tấm gương phản ảnh một cách trung thực môi trường sống, những sinh hoạt, những ứng xử của con người trên địa bàn đối với thiên nhiên cũng như xã hội. Vì vậy, muốn tìm hiểu một địa phương, một đất nước, chúng ta không thể không quan tâm đến địa danh.
Tài liệu tham khảo
1.Hoàng Văn Ma, Về địa danh vùng Tày Nùng, trong “Những vấn đề ngôn ngữ học”, Hà Nội, Viện Ngôn ngữ học, 2001.
2.Lê Trung Hoa, Điạ danh ở Tây Nguyên, Xưa và Nay, số 126, th. 10 –2002, tr.21-23.
3.Lê Trung Hoa, Địa danh Chăm và gốc Chăm ở Trung Bộ, Xưa và Nay, số 127, th. 11- 2002, tr. 15-16.
4.Lê Trung Hoa, Địa danh Khmer và gốc Khmer ở Nam Bộ, trong “Khoa học xã hội và nhân văn trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, Trường KHXH-NV và Nxb TPHCM, 2003, 369-377.
5.Rostaing, Ch., Les noms de lieux, Paris, P.U.F. , 1965.
6.Smolisnaja,G.L.và Gorbanevskij, M.V. Toponimija Moskvy (Địa danh Moskva), Moskva, Nauka,1982
Nguồn: Tác giả + Văn hoá học
http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-chung/76-le-trung-hoa-dia-danh-nhung-tam-bia-lich-su-van-hoa-cua-dat-nuoc.html