Trạng thái
Lịch Sử

Địa danh Tầm Phong Long

Địa danh An Giang

Hứa Kim Oanh, ĐH Sư Phạm tp.HCM (8/2011)

Địa danh vùng đất An Giang có từ khi nào và thay đổi bao nhiêu lần qua thời gian? Những ai người An Giang có bao nhiêu người biết đến, những ai từng đến An Giang có khi nào hỏi đến? Tên gọi nào cũng có gốc tích của nó và tên gọi vùng đất An Giang này có nhiều điều đáng nói đến.

Với tên gọi ban đầu có gốc từ tiếng Khmer – Tầm Phong Long, trước khi thuộc về Việt đây là vùng đất của nước Chân Lạp (Campuchia ngày nay). Tầm Phong Long, theo giải thích của Vương Hồng Sển, âm/Tầm Phong Long/xuất phát từ "Kompong Luông” của tiếng Khmer, có nghĩa là bến, vũng, sông của vua. Theo giải thích này thì đây là vùng đất của vua Chân Lạp, vùng đất của vua vì nơi đây khá rộng lớn, địa thế tốt và khá hiểm yếu.

Vùng đất Tầm Phong Long thuộc về Việt năm 1757 do vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng đất trả ơn cho việc được chúa Nguyễn giúp đỡ khi đất nước Chân Lạp nổi lên các cuộc biến loạn. Cai cơ Nguyễn Cư Trinh vâng lệnh Chúa tiếp nhận đất này và chia vùng đất này thành 3 đạo : đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, đặt đạo Tân Châu ở xứ cù lao Diến (hay cù lao Giêng) trên Tiền Giang, đặt đạo Châu Đốc ở xứ Châu Đốc trên Hậu Giang, lấy quân dinh Long Hồ để trấn áp, chặn giữ những nơi yếu hại ở địa đầu.

Vùng đất Tầm Phong Long rộng lớn trước kia được chia cắt là cơ sở định hình cho 3 tỉnh Tây Nam Kỳ của Nam Kỳ lục tỉnh.

Địa danh ban đầu là đạo Châu Đốc, tên gọi Châu Đốc có trước vì thế đến ngày nay nhiều người quen thuộc tên Châu Đốc hơn An Giang. Vậy nếu ai nói biết Châu Đốc mà không biết An Giang thì cũng không phải chuyện gì đáng kể lắm.

Đạo Châu Đốc được đổi tên thành Châu Đốc Tân Cương năm 1808 để thấy tầm quan trọng của vùng đất này, nơi biên cương mới của nhà Nguyễn.

Tên gọi vùng đất này được thay đổi lần nữa, địa danh An Giang chính thức ra đời năm 1832, do vua Minh Mệnh thực hiện cải cách hành chính, chia Nam Kỳ thành 6 tỉnh. Tỉnh An Giang trong Nam Kỳ Lục tỉnh khá rộng lớn, phía bắc từ thượng nguồn sông Tiền cho đến phía nam sông cái biển Đông (bao gồm tỉnh Đồng Tháp, Hậu Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng ngày nay), phía tây giáp phủ Nam Vang (trước là Cao Miên nay là Campuchia) từ cửa sông Tiền đến sông Hậu và tiếp giáp sông Cái Bồn (Kiên Giang).

Tên gọi An Giang có thể giải nghĩa là dòng sông an lành, để định cư lâu dài khi mà vua Minh Mạng thực hiện chính sách di dân khẩn hoang lập làng, khuyến khích các cư dân vào vùng đất này khai phá.

Sau khi Pháp chiếm được Nam Kỳ lục tỉnh, Pháp thay đổi địa giới hành chính, năm 1899, Nam kỳ từ 6 tỉnh tách thành 19 tỉnh. Tỉnh An Giang được tách thành 5 tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng. Địa danh An Giang không còn trên bản đồ, 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc là định hình cho tỉnh An Giang ngày nay.

Sau Cách mạng tháng 8/1945, hình thành Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, bên cạnh tên gọi theo địa giới hành chính của Pháp thì nơi này có tên gọi mới là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu, phân chia theo sông Tiền và sông Hậu.

Trong 2 năm 1950 – 1951, tên gọi Long Châu Tiền và Long Châu Hậu lại đổi tên thành Long Châu Hà (sáp nhập Long Châu Hậu và Hà Tiên) và Long Châu Sa (sáp nhập tỉnh Sa Đéc vào tỉnh Long Châu Tiền).

Từ năm 1945 đến 1954, có 2 cách phân chia địa giới và đặt địa danh cho vùng đất này, một theo Pháp, một theo Ủy ban kháng chiến. Người dân thuộc khu vực kháng chiến thì quen thuộc với Long Châu Tiền (hoặc Long Châu Hà), Long Châu Hậu (hoặc Long Châu Sa), có khi họ nhầm lẫn tên gọi mới và cũ. Người dân thuộc khu vực của Pháp vẫn dung tên gọi tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc. Đến nay thì tên gọi Long Châu Tiền hoặc Long Châu Hà rất ít người nhớ đến, có khi nghe đến thấy là lạ.

Dưới thời chính quyền Sài Gòn, năm 1956, tên gọi An Giang được sử dụng lại, tỉnh An Giang bao gồm tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc (theo địa giới của Pháp đến 1954). Sau đó, từ năm 1964 đến năm 1975, tách thành tỉnh Châu Đốc và tỉnh An Giang.

Theo Xứ ủy Nam kỳ, năm 1954, lập lại tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc thay tỉnh Long Châu Hà và tỉnh Long Châu Sa. Đến năm 1957, hợp nhất tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc thành tỉnh An Giang. Sau đó lại tách ra vào năm 1971, tỉnh An Giang tách thành tỉnh An Giang và tỉnh Châu Hà (địa giới Châu Đốc). Đến 1974, lần nữa bỏ địa danh An Giang quay lại với địa danh Long Châu Tiền và Long Châu Hà. Sự thay đổi địa danh này làm cho sự phân chia ranh giới khá phức tạp.

Đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, tên gọi An Giang được chính thức sử dụng lại cho đến ngày nay, địa giới An Giang ngày nay cũng được hình thành, bao gồm Long Xuyên và Châu Đốc.

Như vậy, địa danh An Giang được đặt tên cho vùng đất này từ năm 1832, trở thành 1 trong 6 tỉnh đầu tiên của Nam Kỳ, vùng đất có những dòng sông hiền hòa và an lành, vì thế qua nhiều lần tách nhập địa giới và thay đổi tên gọi nhưng cuối cùng An Giang vẫn là tên gọi được gắn liền đến ngày nay. Có lẽ địa danh phản ánh đúng thực cuộc sống an bình của cư dân trên những dòng sông.

## Địa danh An Giang #### Hứa Kim Oanh, ĐH Sư Phạm tp.HCM (8/2011) Địa danh vùng đất An Giang có từ khi nào và thay đổi bao nhiêu lần qua thời gian? Những ai người An Giang có bao nhiêu người biết đến, những ai từng đến An Giang có khi nào hỏi đến? Tên gọi nào cũng có gốc tích của nó và tên gọi vùng đất An Giang này có nhiều điều đáng nói đến. Với tên gọi ban đầu có gốc từ tiếng Khmer – Tầm Phong Long, trước khi thuộc về Việt đây là vùng đất của nước Chân Lạp (Campuchia ngày nay). Tầm Phong Long, theo giải thích của Vương Hồng Sển, âm/Tầm Phong Long/xuất phát từ "Kompong Luông” của tiếng Khmer, có nghĩa là bến, vũng, sông của vua. Theo giải thích này thì đây là vùng đất của vua Chân Lạp, vùng đất của vua vì nơi đây khá rộng lớn, địa thế tốt và khá hiểm yếu. Vùng đất Tầm Phong Long thuộc về Việt năm 1757 do vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng đất trả ơn cho việc được chúa Nguyễn giúp đỡ khi đất nước Chân Lạp nổi lên các cuộc biến loạn. Cai cơ Nguyễn Cư Trinh vâng lệnh Chúa tiếp nhận đất này và chia vùng đất này thành 3 đạo : đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, đặt đạo Tân Châu ở xứ cù lao Diến (hay cù lao Giêng) trên Tiền Giang, đặt đạo Châu Đốc ở xứ Châu Đốc trên Hậu Giang, lấy quân dinh Long Hồ để trấn áp, chặn giữ những nơi yếu hại ở địa đầu. Vùng đất Tầm Phong Long rộng lớn trước kia được chia cắt là cơ sở định hình cho 3 tỉnh Tây Nam Kỳ của Nam Kỳ lục tỉnh. Địa danh ban đầu là đạo Châu Đốc, tên gọi Châu Đốc có trước vì thế đến ngày nay nhiều người quen thuộc tên Châu Đốc hơn An Giang. Vậy nếu ai nói biết Châu Đốc mà không biết An Giang thì cũng không phải chuyện gì đáng kể lắm. Đạo Châu Đốc được đổi tên thành Châu Đốc Tân Cương năm 1808 để thấy tầm quan trọng của vùng đất này, nơi biên cương mới của nhà Nguyễn. Tên gọi vùng đất này được thay đổi lần nữa, địa danh An Giang chính thức ra đời năm 1832, do vua Minh Mệnh thực hiện cải cách hành chính, chia Nam Kỳ thành 6 tỉnh. Tỉnh An Giang trong Nam Kỳ Lục tỉnh khá rộng lớn, phía bắc từ thượng nguồn sông Tiền cho đến phía nam sông cái biển Đông (bao gồm tỉnh Đồng Tháp, Hậu Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng ngày nay), phía tây giáp phủ Nam Vang (trước là Cao Miên nay là Campuchia) từ cửa sông Tiền đến sông Hậu và tiếp giáp sông Cái Bồn (Kiên Giang). Tên gọi An Giang có thể giải nghĩa là dòng sông an lành, để định cư lâu dài khi mà vua Minh Mạng thực hiện chính sách di dân khẩn hoang lập làng, khuyến khích các cư dân vào vùng đất này khai phá. Sau khi Pháp chiếm được Nam Kỳ lục tỉnh, Pháp thay đổi địa giới hành chính, năm 1899, Nam kỳ từ 6 tỉnh tách thành 19 tỉnh. Tỉnh An Giang được tách thành 5 tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng. Địa danh An Giang không còn trên bản đồ, 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc là định hình cho tỉnh An Giang ngày nay. Sau Cách mạng tháng 8/1945, hình thành Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, bên cạnh tên gọi theo địa giới hành chính của Pháp thì nơi này có tên gọi mới là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu, phân chia theo sông Tiền và sông Hậu. Trong 2 năm 1950 – 1951, tên gọi Long Châu Tiền và Long Châu Hậu lại đổi tên thành Long Châu Hà (sáp nhập Long Châu Hậu và Hà Tiên) và Long Châu Sa (sáp nhập tỉnh Sa Đéc vào tỉnh Long Châu Tiền). Từ năm 1945 đến 1954, có 2 cách phân chia địa giới và đặt địa danh cho vùng đất này, một theo Pháp, một theo Ủy ban kháng chiến. Người dân thuộc khu vực kháng chiến thì quen thuộc với Long Châu Tiền (hoặc Long Châu Hà), Long Châu Hậu (hoặc Long Châu Sa), có khi họ nhầm lẫn tên gọi mới và cũ. Người dân thuộc khu vực của Pháp vẫn dung tên gọi tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc. Đến nay thì tên gọi Long Châu Tiền hoặc Long Châu Hà rất ít người nhớ đến, có khi nghe đến thấy là lạ. Dưới thời chính quyền Sài Gòn, năm 1956, tên gọi An Giang được sử dụng lại, tỉnh An Giang bao gồm tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc (theo địa giới của Pháp đến 1954). Sau đó, từ năm 1964 đến năm 1975, tách thành tỉnh Châu Đốc và tỉnh An Giang. Theo Xứ ủy Nam kỳ, năm 1954, lập lại tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc thay tỉnh Long Châu Hà và tỉnh Long Châu Sa. Đến năm 1957, hợp nhất tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc thành tỉnh An Giang. Sau đó lại tách ra vào năm 1971, tỉnh An Giang tách thành tỉnh An Giang và tỉnh Châu Hà (địa giới Châu Đốc). Đến 1974, lần nữa bỏ địa danh An Giang quay lại với địa danh Long Châu Tiền và Long Châu Hà. Sự thay đổi địa danh này làm cho sự phân chia ranh giới khá phức tạp. Đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, tên gọi An Giang được chính thức sử dụng lại cho đến ngày nay, địa giới An Giang ngày nay cũng được hình thành, bao gồm Long Xuyên và Châu Đốc. Như vậy, địa danh An Giang được đặt tên cho vùng đất này từ năm 1832, trở thành 1 trong 6 tỉnh đầu tiên của Nam Kỳ, vùng đất có những dòng sông hiền hòa và an lành, vì thế qua nhiều lần tách nhập địa giới và thay đổi tên gọi nhưng cuối cùng An Giang vẫn là tên gọi được gắn liền đến ngày nay. Có lẽ địa danh phản ánh đúng thực cuộc sống an bình của cư dân trên những dòng sông.
edited Mar 27 '16 lúc 10:20 am

CÔNG CUỘC KHAI PHÁ VÙNG ĐẤT TẦM PHONG LONG (TỪ GIỮA THẾ KỶ XVIII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX)

TS. Trần Thị Mai

(Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc giaTPHCM)

1. MẢNH ĐẤT – CON NGƯỜI:

Tầm Phong Long trước thế kỷ XVIII là vùng đất rộng lớn từ biên giới Việt- Campuchia, chạy dọc theo sông Tiền và sông Hậu xuống tới Trà Vang (Trà Vinh) và Ba Thắc (Sóc Trăng và Bạc Liêu). Bề ngang từ Hà Tiên sang đến đất Tầm Bôn (Tân An) và từ Ba Thắc đến Tầm Bào (Vĩnh Long), Trấn Giang (Cần Thơ).

Tầm Phong Long là nơi có thế đất hiểm yếu, núi cao, sông dài, nhiều rừng rậm, dân cư thưa thớt. Trong suốt thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, các thế lực chống đối ở Chân Lạp thường lợi dụng thế hiểm yếu này để chống lại triều đình và hoạt động thổ phỉ. Các thế lực phong kiến Chân Lạp khi tranh giành quyền lực lẫn nhau cũng thường dựa vào địa thế này để giữ gìn lực lượng.

Năm 1757, triều đình Chân Lạp đại loạn, để giữ được quyền lực chính trị, Nặc Ông Tôn dựa vào thế lực chúa Nguyễn, được chúa Nguyễn giúp lên ngôi và đã dâng chúa Thế Tông ( Nguyễn Phúc Khoát) đất Tầm Phong Long. Cai cơ Nguyễn Cư Trinh vâng lệnh Chúa tiếp nhận đất này và “ đặt đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, đặt đạo Tân Châu ở xứ cù lao Diến trên Tiền Giang, đặt đạo Châu Đốc ở xứ Châu Đốc trên Hậu Giang, lấy quân dinh Long Hồ để trấn áp, chẹn giữ những nơi yếu hại ở địa đầu.”

Việc Nặc Ông Tôn cắt đất Tầm Phong Long không chỉ được ghi trong các bộ sử Việt Nam mà cũng được chép trong chính sử của Campuchia. Sách Đại Nam nhất thống chí mục tỉnh An Giang viết An Giang “xưa là đất Tầm Phong Long, năm Đinh Sửu thứ 19 (1757) đời Thế Tông, quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn dâng đất này, đặt làm đạo Châu Đốc, vì đất ấy có nhiều chỗ bỏ hoang, đầu đời Gia Long mộ dân đến ở, gọi là Châu Đốc Tân Cương”.

Năm Kỷ Dậu 1789, Nguyễn Ánh trở về Long Xuyên, cho xây thủ Đông Xuyên, (là một đồn nhỏ tại vàm sông Tam Khê, sau đổi thành sông Đông Xuyên, nay là sông Long Xuyên) làm tiền đồn chống Tây Sơn và để giữ vùng đất đứng chân buổi đầu của lực lượng họ Nguyễn.

Năm 1808, sáu năm sau khi thống nhất thiên hạ, Gia Long tiến hành sắp xếp lại các đơn vị hành chính ở Gia Định. Nhà vua cho lập Châu Đốc Tân cương, đặt chức quản đạo để cai trị, thuộc Long Hồ dinh.

Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), trong cuộc cải cách quy mô lớn về hành chính, triều đình Huế lấy đất Tầm Phong Long, (cùng với huyện Vĩnh An, tỉnh Vĩnh Long) đặt làm phủ Tuy Biên và Tân Thành; lập tỉnh An Giang kiêm quản bốn huyện là Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên,Vĩnh An. Từ đây tỉnh An Giang, một trong 6 tỉnh của Nam Kỳ, được thành lập, gồm có 2 phủ, 4 huyện. Nhà Nguyễn đặt chức An Hà Tổng đốc, thống lãnh hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại đặt hai ty Bố chánh, án sát quản việc. Lỵ sở của tỉnh đặt tại Châu Đốc.

Không có một tài liệu nào cho biết về dân cư của vùng đất Tầm Phong Long, sau là An Giang khi ấy. Tuy nhiên, theo những ghi chép tản mạn, có thể phục dựng chủ nhân của vùng đất này từ xa xưa là những nhóm cư dân Môn Khmer cổ và Nam Đảo – chủ nhân của đế chế Phù Nam hùng thịnh một thời. Dưới thời cai quản của Quốc vương Chân Lạp, một bộ phận người Khmer và người Chăm tiếp tục tụ cư, khai thác những nguồn lợi của sông, rừng và canh tác trên những cù lao màu mỡ.

Sau khi sáp nhập vào lãnh thổ của chúa Nguyễn, một bộ phận đông đảo cư dân người Việt và người Hoa đã được chiêu mộ để khai thác vùng đất mới, làm tăng thêm tính đa dạng cộng đồng sắc tộc trên vùng đất này.

Đặc biệt, kể từ khi Thoại Ngọc Hầu nhận nhiệm vụ trấn giữ vùng đất này (1817), với nhãn quan chính trị sắc bén, ông không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một viên tướng vùng biên ải, mà còn ra sức mộ dân lập làng, cho đào những con kênh lớn vừa tăng cường an ninh quốc phòng, vừa tạo điều kiện cho dân an cư, lạc nghiệp, phát triển kinh tế. Dân cư từ các vùng khác lũ lượt kéo đến, khiến cả một dọc biên giới từ Châu Đốc đến Hà Tiên, người Việt, người Khmer, người Hoa trở nên đông đúc, hòa thuận.

Sách Đại Nam nhất thống chí có cho biết sự hiện diện của những người Việt đến sinh sống, hòa nhập với người Khmer ở vùng Bảy núi vào mấy thế kỷ trước. Họ đến để khai thác nguồn lợi thiên nhiên, lập vườn cây ăn trái, trồng hoa màu, tìm dược thảo, làm ruộng ở chân núi, bắt cá vào mùa hạn ở các ao đìa...

Núi Chân Sum người Kinh, người Trung Quốc, người Cao Mên, làm nhà ở liền nhau kết thôn họp chợ, để đón lợi chằm sông rừng núi.

2. QUÁ TRÌNH KHAI PHÁ:

Từ sau khi có được đất Tầm Phong Long, Nguyễn Cư Trinh tập trung binh lính và mộ dân đến khai thác các vùng Châu Đốc, Hồng Ngự, Tân Châu, Sa Đéc.

Những tài liệu của nhà Nguyễn đều cho biết Nguyễn Cư Trinh rất giàu sáng kiến: Ông lo thắt chặt ngoại giao với Chân Lạp; mộ dân lập ấp; đoàn kết các cộng đồng cư dân trong vùng; tổ chức an ninh trờn vùng đất mới; đảm bảo sự thông thương buôn bán trên vùng rạch hồ... . Ông còn bày ra lệ bắt thuyền các Hạt, bất luận lớn nhỏ, trước mũi phải khắc tên họ, quê quán, chủ thuyền và ghi bộ quan sở tại để tiện tra xét.

Những nỗ lực của Nguyễn Cư Trinh đã góp phần quan trọng vào công cuộc khẩn hoang, lập làng, tạo tiền đề quyết định cho sự ổn định của miền biên viễn giai đoạn tiếp sau đó.

Từ năm 1790, công cuộc khai phá vùng đất Tầm Phong Long được đẩy mạnh thêm một bước kể từ khi Nguyễn Ánh cho đặt chức Điền tuấn quan, khuyến khích khẩn hoang, lập làng, phát triển kinh tế nông nghiệp. Nguyễn Ánh cũng cho lập thêm Châu Giang thổ bảo (đồn Châu Giang), tiếp đó lại lập thêm các đồn lũy: Đồn Hồi Oa, thủ Đông Xuyên, thủ Cường Uy, để giữ gìn an ninh trật tự. Nhờ vậy, dân chúng tự động vào khai phá ở hai đạo Đông khẩu và Châu Đốc ngày càng đông.

Cũng trong năm 1790, Nguyễn Ánh cho áp dụng chế độ đồn điền ở Gia Định. Mục đích là dùng quân đội vào việc khẩn hoang, vừa gia tăng hậu cần, vừa có thể giữ đất lâu dài. Theo đó, điền tốt, dân nghèo bị bắt buộc hoặc chiêu mộ đi khẩn hoang, nhắm vào những vùng đất mới như Châu Đốc, Tân Châu.. .. chính quyền ban hành những quy định rất dễ dãi đối với người đi khẩn hoang, như: Cấp phát ruộng đất, trâu bò, nông cụ; hay như Trịnh Hoài Đức cho biết trong Gia Định thành thông chí về thuế lệ dễ dãi áp dụng cho đất Đồng Nai – Gia Định: “… nghe theo ý muốn của dân, không có bó buộc gì, cốt cho mở đất vỡ hoang thành ruộng lập xã mà thôi, lại có khi đất bùn lầy mà trưng làm ruộng nộp thuế, ruộng ở núi và gò giồng mà trưng làm ruộng cỏ, như thế nhiều lắm. Còn như sào mẫu khoảnh thửa, thì tùy theo miệng nói mà biên vào sổ, cũng không hạ thước đi khám và bổ chia tốt xấu theo thực trạng về thuế lệ nhiều ít, cái hộc đong lớn nhỏ, thì lại tùy theo lệ cũ, theo thế mà làm, rất không đều nhau. Đến đây mới tham chước mà đặt tiêu chuẩn công bằng, nhưng so sánh với các dinh trấn ở phía bắc thì Gia Định pháp chế rộng mà thuế nhẹ” Chúng ta đều biết rằng, Trịnh Hoài Đức vốn được cử làm Điền tuấn quan, trông coi đốc thúc việc khuyến nông ở Gia Định. Do vậy, những ghi chép của ông như trên là có cơ sở thuyết phục.

Thời Gia Long, hệ thống chính quyền thống nhất trên toàn quốc. Vấn đề nội trị, ngoại giao đặt ra những yêu cầu mới. Để giải quyết những khó khăn về đối nội, đối ngoại đặt ra lúc bấy giờ ở đất Gia Định, chính quyền Gia Long chủ trương dùng biện pháp khẩn hoang như một giải pháp trọng yếu giúp an dân và ổn định biên cương. Vùng đất phía tây nam, bao gồm đất Hà Tiên và Tầm Phong Long xưa được chính quyền đặc biệt coi trọng trong chiến lược khai hoang và an ninh quốc phòng.

Năm 1817, triều đình cử Nguyễn Văn Thoại (Thụy – Thoại Ngọc Hầu) làm trấn thủ Vĩnh Thanh.

Nhận rõ tầm quan trọng của vùng Châu Đốc Tân Cương về kinh tế và quốc phòng, lại nhận thấy việc giao thông thương mại ở vùng đất này gặp nhiều khó khăn, mọi trao đổi hàng hóa thời bấy giờ giữa miền duyên hải Hà Tiên, Rạch Giá (nay đều thuộc tỉnh Kiên Giang) với Châu Đốc đều phải đi vòng đường biển thật bất tiện, Nguyễn Văn Thoại đã tâu trình xin đào vét sông Ba Lạch vốn có tầm chiến lược về quân sự, nhưng “ngòi nhỏ bùn lầy, cỏ cây đầy lấp, thuyền bè không qua lại được”. Tháng 11 năm 1817, Gia Long sai Thoại Ngọc Hầu “ đem đinh phu Kinh và Thổ 1.500 người, nhà nước cấp tiền gạo cho, bắt chém chặt khơi thông, bề ngang 20 tầm, bề sâu 4 thước, một tháng làm xong bèn thông với đường sông Kiên Giang, dân Kinh, dân Di đều được lợi cả. Vua cho tên sông là Thoại Hà để tỏ lòng biết công lao của kẻ bề tôi”.

Kênh Thoại Hà dài gần 30 km, rộng hơn 5 m. Khi hoàn thành kênh, nhờ nguồn nước ngọt dồi dào, việc đi lại, giao thương thuận lợi nên vùng Châu Đốc tân Cương trở nên có sức thu hút đối với dân nghèo khẩn hoang. Kênh Thoại Hà còn đóng vai trò quan trọng trong việc tháo một phần nước lụt của sông Hậu ra biển. Với ý nghĩa này, kênh Thoại Hà (còn có tên kênh Tam Khê, kênh Đông Xuyên hay Đông Xuyên Cảng đạo) nối liền Thoại Sơn (An Giang) với Rạch Giá (Kiên Giang) được xem là công trình thoát lũ đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long.

Công cuộc đào kênh Thoại Hà của Nguyễn Văn Thoại còn được ghi rõ trên Bia Thoại Sơn:

Mùa thu năm Đinh Sửu (1817), lão thần kính, được vua trao ấn phù giữ trấn Vĩnh Thanh, mùa xuân năm Mậu Dần (1818 ) vâng chỉ đốc suất đào kênh (kinh) Đông Xuyên.

Từ ngày thụ mệnh vua, sớm khuya kính sợ, đốn cây rậm, bới bùn lầy, đào kênh dài đến 12.410 tầm, trải qua một tháng thì xong việc, nghiễm nhiên trở thành ra một sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi.

Cùng lúc với việc đào kênh, Thoại Ngọc Hầu chú trọng lập làng, làm đường. Nhờ đó mà nối liền Long Xuyên với vịnh Rạch Giá (Kiên Giang).

Năm 1820, Nguyễn Văn Thoại lại cho đào con kênh lớn nối liền Châu Đốc với Hà Tiên. Đây là một công trình vĩ đại do ông thiết kế, huy động đến 80.000 người và phải làm gần 5 năm (1820 - 1824) mới hoàn thành. Kênh này còn là đường ranh giới giữa Việt Nam và Chân Lạp.

Trước đó, vào năm 1816, khi thành Châu Đốc được đắp xong, Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường tâu lên, vua Gia Long xem địa đồ miền đất này liền truyền: Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên, thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy. Biết thế, nhưng nhà vua chưa ra lệnh đào ngay vì ngại đây là vùng đất mới mở, nhân dân còn cơ cực, nếu bắt làm xâu thêm khổ sở, lòng dân sẽ không yên. Mãi đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long mới cho lệnh đào kênh, và công việc được bắt đầu khởi công vào tháng chạp năm ấy, trải qua mấy giai đoạn trong suốt 5 năm, đến tháng 5 năm Nhâm Thân (1824), dưới triều vua Minh Mạng thì đào xong.

Trước khi khởi đào, vua Gia Long có lời dụ cho dân chúng, vừa động viên vừa chỉ rõ sự lợi ích:

"Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng quan hệ chẳng nhỏ, các ngươi ngày nay tuy là chịu khó, nhưng mà lợi ích cho muôn đời về sau. Vậy dân chúng cần bảo nhau cho biết, đừng nên sợ nhọc"

Năm 1822, vua Minh Mạng lại có chỉ dụ tương tự:

Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta (ý nói vua Gia Long) mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau.

Kênh đào song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia, bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc thẳng nối giáp với sông Giang Thành, thuộc thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang Dưới sự chỉ huy của Trấn thủ Vĩnh Thanh Thoại Ngọc Hầu cùng với 2 ông là Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên (1763-1831), Điều Bát Nguyễn Văn Tồn (1763 - 1820). Sau có thêm Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt (1764 - 1832), Phó Tổng trấn thành Gia Định Trần Văn Năng, Thống chế Trần Công Lại góp sức.

Ngay trong đợt đầu đã có hơn 10.000 nhân công bao gồm: 5.000 quân dân trong vùng, 500 lính thuộc đồn Uy Viễn, 5.000 dân là người Khmer. Kênh phải qua nhiều đoạn đất cứng khó đào, lại có khi gặp phải thời tiết, khí hậu bất lợi nên có lúc công việc phải gián đoạn hoặc chậm chạp.

Biết vậy, ngay khi lên ngôi (1820), vua Minh Mạng lập tức ra lệnh cho Tổng trấn thành Gia định là Lê Văn Duyệt huy động thêm nhiều dân binh ở các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh, Định Tường hơn 39.000 người, trong số đó binh và dân người Khmer 16.000 người, chia làm 3 phiên, đào đắp bằng tay với dụng cụ thô sơ hàng triệu mét khối đất đá... và có khi phải thay nhau thi công suốt ngày đêm...

Năm 1824, kênh hoàn thành với chiều dài 205 dặm rưỡi (91km), rộng 7 trượng 5 thước (25m), sâu 6 thước(3m). Ước tính, trong 5 năm, các quan phụ trách đã phải huy động đến hơn 80.000 dân binh. Kênh đào xong đã tưới tiêu cho hàng vạn mẫu ruộng miền Hậu Giang và việc đi lại bằng đường thủy vô cùng thuận lợi. Sách "Đại Nam nhất thống chí" viết rằng : "... Từ ấy, đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước đến phòng giữ ngoài biên cho tới nhân dân buôn bán đều được tiện lợi vô cùng". Đến bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thuỷ, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn.

Vua Minh Mạng rất hài lòng trước sự thành công của công trình thủy lợi này nên sắc ban cho ngọn núi nhìn xuống dòng kênh cái tên Thoại Sơn (tên dân gian là núi Sập) và cho con kênh mang tên là kênh Vĩnh Tế (tên vợ ông, bà Châu Thị Vĩnh Tế). Triều Nguyễn còn nghĩ đến công lao của Nguyễn Văn Thoại nên lấy tên ông đặt cho tên làng, tên núi, tên sông: Thoại Sơn, Thoại Hà, Thoại Giang.

Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua cho đúc Cửu đỉnh để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên viễn của hoàng gia, hình kênh Vĩnh Tế được chạm khắc vào Cao đỉnh.

3. VẤN ĐỀ XÁC LẬP CHỦ QUYỀN VÀ ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC PHÒNG

Thật ra, từ đầu thế kỷ XVIII, vùng khai phá dần mở rộng vào sâu nội địa theo các kênh rạch và theo tiến trình xác lập chủ quyền của các chúa Nguyễn. Hệ thống chính quyền lần lượt ra đời, các đồn lũy bảo vệ đất đai, dân cư của chúa nguyễn mọc lên; hệ thống kênh rạch được nạo vét, đào mới phục vụ cho việc trị an, quốc phòng; chính sách khuyến khích khẩn hoang, lập làng của chính quyền... là những đảm bảo chắc chắn để lưu dân người Việt ngày càng vững tâm tiến vào khai phá lập nghiệp. Từ đó, khu vực miền trung Nam bộ ( bao gồm vùng bắc sông Tiền và vùng nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) về cơ bản đã được khai khẩn xong; vùng Hà Tiên với vai trò bảo hộ của chính quyền và khả năng tổ chức khai phá hiệu quả của dòng họ Mạc cũng đã cơ bản hoàn tất công cuộc tạo dựng và trở nên phát triển.

Đất Gia Định đến năm 1756 về cơ bản đã thành hình như trên bản đồ Nam bộ ngày nay. Tuy nhiên, một số vùng dọc theo giữa hai sông, sông Tiền và sông Hậu, và phía đông dọc theo hữu ngạn Hậu Giang là Tầm Phong Long, Tầm Bôn và Xuy Lạp, người Chân Lạp vẫn quản lý. Sự kiện 1757, vua Chân Lạp Preah Outey (Nặc Ông Tôn (1758-1775)) dâng đất Tầm Phong Long, Tầm Bôn và Xuy Lạp đã chính thức hoàn tất quá trình mở đất về phương Nam của các chúa Nguyễn, đánh dấu sự sáp nhập hoàn toàn đất Nam bộ vào lãnh thổ Đại Việt.

Ngay trong năm 1757, Nguyễn Cư Trinh xin dời dinh Long Hồ lên xứ Tầm Bào (Vĩnh Long), để tiện cho việc quản lý miền đất mới lấy được. Ông sai lập đạo hai bên sông Cửu Long gần biên giới: Tân Châu đạo (Cù Lao Giêng) ở Tiền Giang và Châu Đốc đạo ở Hậu Giang; lại lập thêm Đông Khẩu đạo, ở xứ Sa Đéc, để làm hậu thuẫn. Các đạo ấy dùng binh ở Long Hồ dinh để trấn áp, giữ mặt vịnh Xiêm La, phòng Xiêm làm hỗn. Nguyễn Cư Trinh còn phối hợp với Mạc Thiên Tứ đặt ra Kiên Giang đạo ở Rạch Giá và Long Xuyên đạo ở vùng Cà Mau, nhằm đẩy mạnh khai phá và đảm bảo an ninh quốc phòng.

Xác lập chủ quyền bằng đường biên giới, khu vực chịu ảnh hưởng chỉ là bước đầu, việc đưa dân tới sinh sống, biến vùng đất thành nơi cư trú, sinh sống, sản xuất mới là yếu tố quyết định chủ quyền đối với vùng đất đó. Vì thế với vai trò của Nguyễn Cư Trinh, của Nguyễn Văn Thoại cùng với những chủ trương, biện pháp đầy sáng tạo của các ông đối với đất Tầm Phong Long; với bàn tay và khối óc lao động cần cù, dũng cảm của các cộng đồng cư dân người Việt, người Hoa, người Khmer trong hơn một thế kỷ (từ giữa thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX) là những nhân tố vô cùng có ý nghĩa trong việc khẳng định vai trò cũng như chủ quyền của người Việt tại đây.

Nhận thức của vua Gia Long và vua Minh Mạng khi cho tiến hành đào kênh Vĩnh Tế đã phản ánh nhãn quan chính trị và quyết tâm sắt đá của nhà Nguyễn đối với vấn đề chủ quyền và an ninh trật tự ở vùng biên cương tây nam "Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng quan hệ chẳng nhỏ, các ngươi ngày nay tuy là chịu khó, nhưng mà lợi ích cho muôn đời về sau. Vậy dân chúng cần bảo nhau cho biết, đừng nên sợ nhọc" . Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta (ý nói vua Gia Long) mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau.

Đất Tầm Phong Long từ khi sỏp nhập vào lãnh thổ Đại Việt đó hoàn tất quá trình xác lập lãnh thổ trên đất Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Từ đây, bản đồ Đàng Trong của các chúa Nguyễn đó hoàn chỉnh và phân định rạch ròi với các quốc gia láng giềng. Công cuộc khai phá đất đai, phát triển hệ thống kênh rạch, ổn định hệ thống hành chính trên vùng đất mới từ năm 1757 đến giữa thế kỷ XIX của chính quyền và nhân dân đã khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt (Việt Nam sau này ).


Chú thích :

(1) Nguyễn Văn Hầu – Thoại Ngọc hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, nxb Trẻ, 2006.

(2) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, 1998, tr. 80.

(3) Quốc sử quán nhà Nguyễn – Đại Nam nhất thống chí, tập V.

(4) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, tr. 50,51.

(5) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, tr.80.

(6) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, tr.59.

## CÔNG CUỘC KHAI PHÁ VÙNG ĐẤT TẦM PHONG LONG (TỪ GIỮA THẾ KỶ XVIII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX) ** TS. Trần Thị Mai** (Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc giaTPHCM) **1. MẢNH ĐẤT – CON NGƯỜI:** Tầm Phong Long trước thế kỷ XVIII là vùng đất rộng lớn từ biên giới Việt- Campuchia, chạy dọc theo sông Tiền và sông Hậu xuống tới Trà Vang (Trà Vinh) và Ba Thắc (Sóc Trăng và Bạc Liêu). Bề ngang từ Hà Tiên sang đến đất Tầm Bôn (Tân An) và từ Ba Thắc đến Tầm Bào (Vĩnh Long), Trấn Giang (Cần Thơ). Tầm Phong Long là nơi có thế đất hiểm yếu, núi cao, sông dài, nhiều rừng rậm, dân cư thưa thớt. Trong suốt thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, các thế lực chống đối ở Chân Lạp thường lợi dụng thế hiểm yếu này để chống lại triều đình và hoạt động thổ phỉ. Các thế lực phong kiến Chân Lạp khi tranh giành quyền lực lẫn nhau cũng thường dựa vào địa thế này để giữ gìn lực lượng. Năm 1757, triều đình Chân Lạp đại loạn, để giữ được quyền lực chính trị, Nặc Ông Tôn dựa vào thế lực chúa Nguyễn, được chúa Nguyễn giúp lên ngôi và đã dâng chúa Thế Tông ( Nguyễn Phúc Khoát) đất Tầm Phong Long. Cai cơ Nguyễn Cư Trinh vâng lệnh Chúa tiếp nhận đất này và “ đặt đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc, đặt đạo Tân Châu ở xứ cù lao Diến trên Tiền Giang, đặt đạo Châu Đốc ở xứ Châu Đốc trên Hậu Giang, lấy quân dinh Long Hồ để trấn áp, chẹn giữ những nơi yếu hại ở địa đầu.” Việc Nặc Ông Tôn cắt đất Tầm Phong Long không chỉ được ghi trong các bộ sử Việt Nam mà cũng được chép trong chính sử của Campuchia. Sách Đại Nam nhất thống chí mục tỉnh An Giang viết An Giang “xưa là đất Tầm Phong Long, năm Đinh Sửu thứ 19 (1757) đời Thế Tông, quốc vương Chân Lạp Nặc Tôn dâng đất này, đặt làm đạo Châu Đốc, vì đất ấy có nhiều chỗ bỏ hoang, đầu đời Gia Long mộ dân đến ở, gọi là Châu Đốc Tân Cương”. Năm Kỷ Dậu 1789, Nguyễn Ánh trở về Long Xuyên, cho xây thủ Đông Xuyên, (là một đồn nhỏ tại vàm sông Tam Khê, sau đổi thành sông Đông Xuyên, nay là sông Long Xuyên) làm tiền đồn chống Tây Sơn và để giữ vùng đất đứng chân buổi đầu của lực lượng họ Nguyễn. Năm 1808, sáu năm sau khi thống nhất thiên hạ, Gia Long tiến hành sắp xếp lại các đơn vị hành chính ở Gia Định. Nhà vua cho lập Châu Đốc Tân cương, đặt chức quản đạo để cai trị, thuộc Long Hồ dinh. Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), trong cuộc cải cách quy mô lớn về hành chính, triều đình Huế lấy đất Tầm Phong Long, (cùng với huyện Vĩnh An, tỉnh Vĩnh Long) đặt làm phủ Tuy Biên và Tân Thành; lập tỉnh An Giang kiêm quản bốn huyện là Tây Xuyên, Phong Phú, Đông Xuyên,Vĩnh An. Từ đây tỉnh An Giang, một trong 6 tỉnh của Nam Kỳ, được thành lập, gồm có 2 phủ, 4 huyện. Nhà Nguyễn đặt chức An Hà Tổng đốc, thống lãnh hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại đặt hai ty Bố chánh, án sát quản việc. Lỵ sở của tỉnh đặt tại Châu Đốc. Không có một tài liệu nào cho biết về dân cư của vùng đất Tầm Phong Long, sau là An Giang khi ấy. Tuy nhiên, theo những ghi chép tản mạn, có thể phục dựng chủ nhân của vùng đất này từ xa xưa là những nhóm cư dân Môn Khmer cổ và Nam Đảo – chủ nhân của đế chế Phù Nam hùng thịnh một thời. Dưới thời cai quản của Quốc vương Chân Lạp, một bộ phận người Khmer và người Chăm tiếp tục tụ cư, khai thác những nguồn lợi của sông, rừng và canh tác trên những cù lao màu mỡ. Sau khi sáp nhập vào lãnh thổ của chúa Nguyễn, một bộ phận đông đảo cư dân người Việt và người Hoa đã được chiêu mộ để khai thác vùng đất mới, làm tăng thêm tính đa dạng cộng đồng sắc tộc trên vùng đất này. Đặc biệt, kể từ khi Thoại Ngọc Hầu nhận nhiệm vụ trấn giữ vùng đất này (1817), với nhãn quan chính trị sắc bén, ông không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một viên tướng vùng biên ải, mà còn ra sức mộ dân lập làng, cho đào những con kênh lớn vừa tăng cường an ninh quốc phòng, vừa tạo điều kiện cho dân an cư, lạc nghiệp, phát triển kinh tế. Dân cư từ các vùng khác lũ lượt kéo đến, khiến cả một dọc biên giới từ Châu Đốc đến Hà Tiên, người Việt, người Khmer, người Hoa trở nên đông đúc, hòa thuận. Sách Đại Nam nhất thống chí có cho biết sự hiện diện của những người Việt đến sinh sống, hòa nhập với người Khmer ở vùng Bảy núi vào mấy thế kỷ trước. Họ đến để khai thác nguồn lợi thiên nhiên, lập vườn cây ăn trái, trồng hoa màu, tìm dược thảo, làm ruộng ở chân núi, bắt cá vào mùa hạn ở các ao đìa... Núi Chân Sum người Kinh, người Trung Quốc, người Cao Mên, làm nhà ở liền nhau kết thôn họp chợ, để đón lợi chằm sông rừng núi. **2. QUÁ TRÌNH KHAI PHÁ:** Từ sau khi có được đất Tầm Phong Long, Nguyễn Cư Trinh tập trung binh lính và mộ dân đến khai thác các vùng Châu Đốc, Hồng Ngự, Tân Châu, Sa Đéc. Những tài liệu của nhà Nguyễn đều cho biết Nguyễn Cư Trinh rất giàu sáng kiến: Ông lo thắt chặt ngoại giao với Chân Lạp; mộ dân lập ấp; đoàn kết các cộng đồng cư dân trong vùng; tổ chức an ninh trờn vùng đất mới; đảm bảo sự thông thương buôn bán trên vùng rạch hồ... . Ông còn bày ra lệ bắt thuyền các Hạt, bất luận lớn nhỏ, trước mũi phải khắc tên họ, quê quán, chủ thuyền và ghi bộ quan sở tại để tiện tra xét. Những nỗ lực của Nguyễn Cư Trinh đã góp phần quan trọng vào công cuộc khẩn hoang, lập làng, tạo tiền đề quyết định cho sự ổn định của miền biên viễn giai đoạn tiếp sau đó. Từ năm 1790, công cuộc khai phá vùng đất Tầm Phong Long được đẩy mạnh thêm một bước kể từ khi Nguyễn Ánh cho đặt chức Điền tuấn quan, khuyến khích khẩn hoang, lập làng, phát triển kinh tế nông nghiệp. Nguyễn Ánh cũng cho lập thêm Châu Giang thổ bảo (đồn Châu Giang), tiếp đó lại lập thêm các đồn lũy: Đồn Hồi Oa, thủ Đông Xuyên, thủ Cường Uy, để giữ gìn an ninh trật tự. Nhờ vậy, dân chúng tự động vào khai phá ở hai đạo Đông khẩu và Châu Đốc ngày càng đông. Cũng trong năm 1790, Nguyễn Ánh cho áp dụng chế độ đồn điền ở Gia Định. Mục đích là dùng quân đội vào việc khẩn hoang, vừa gia tăng hậu cần, vừa có thể giữ đất lâu dài. Theo đó, điền tốt, dân nghèo bị bắt buộc hoặc chiêu mộ đi khẩn hoang, nhắm vào những vùng đất mới như Châu Đốc, Tân Châu.. .. chính quyền ban hành những quy định rất dễ dãi đối với người đi khẩn hoang, như: Cấp phát ruộng đất, trâu bò, nông cụ; hay như Trịnh Hoài Đức cho biết trong Gia Định thành thông chí về thuế lệ dễ dãi áp dụng cho đất Đồng Nai – Gia Định: “… nghe theo ý muốn của dân, không có bó buộc gì, cốt cho mở đất vỡ hoang thành ruộng lập xã mà thôi, lại có khi đất bùn lầy mà trưng làm ruộng nộp thuế, ruộng ở núi và gò giồng mà trưng làm ruộng cỏ, như thế nhiều lắm. Còn như sào mẫu khoảnh thửa, thì tùy theo miệng nói mà biên vào sổ, cũng không hạ thước đi khám và bổ chia tốt xấu theo thực trạng về thuế lệ nhiều ít, cái hộc đong lớn nhỏ, thì lại tùy theo lệ cũ, theo thế mà làm, rất không đều nhau. Đến đây mới tham chước mà đặt tiêu chuẩn công bằng, nhưng so sánh với các dinh trấn ở phía bắc thì Gia Định pháp chế rộng mà thuế nhẹ” Chúng ta đều biết rằng, Trịnh Hoài Đức vốn được cử làm Điền tuấn quan, trông coi đốc thúc việc khuyến nông ở Gia Định. Do vậy, những ghi chép của ông như trên là có cơ sở thuyết phục. Thời Gia Long, hệ thống chính quyền thống nhất trên toàn quốc. Vấn đề nội trị, ngoại giao đặt ra những yêu cầu mới. Để giải quyết những khó khăn về đối nội, đối ngoại đặt ra lúc bấy giờ ở đất Gia Định, chính quyền Gia Long chủ trương dùng biện pháp khẩn hoang như một giải pháp trọng yếu giúp an dân và ổn định biên cương. Vùng đất phía tây nam, bao gồm đất Hà Tiên và Tầm Phong Long xưa được chính quyền đặc biệt coi trọng trong chiến lược khai hoang và an ninh quốc phòng. Năm 1817, triều đình cử Nguyễn Văn Thoại (Thụy – Thoại Ngọc Hầu) làm trấn thủ Vĩnh Thanh. Nhận rõ tầm quan trọng của vùng Châu Đốc Tân Cương về kinh tế và quốc phòng, lại nhận thấy việc giao thông thương mại ở vùng đất này gặp nhiều khó khăn, mọi trao đổi hàng hóa thời bấy giờ giữa miền duyên hải Hà Tiên, Rạch Giá (nay đều thuộc tỉnh Kiên Giang) với Châu Đốc đều phải đi vòng đường biển thật bất tiện, Nguyễn Văn Thoại đã tâu trình xin đào vét sông Ba Lạch vốn có tầm chiến lược về quân sự, nhưng “ngòi nhỏ bùn lầy, cỏ cây đầy lấp, thuyền bè không qua lại được”. Tháng 11 năm 1817, Gia Long sai Thoại Ngọc Hầu “ đem đinh phu Kinh và Thổ 1.500 người, nhà nước cấp tiền gạo cho, bắt chém chặt khơi thông, bề ngang 20 tầm, bề sâu 4 thước, một tháng làm xong bèn thông với đường sông Kiên Giang, dân Kinh, dân Di đều được lợi cả. Vua cho tên sông là Thoại Hà để tỏ lòng biết công lao của kẻ bề tôi”. Kênh Thoại Hà dài gần 30 km, rộng hơn 5 m. Khi hoàn thành kênh, nhờ nguồn nước ngọt dồi dào, việc đi lại, giao thương thuận lợi nên vùng Châu Đốc tân Cương trở nên có sức thu hút đối với dân nghèo khẩn hoang. Kênh Thoại Hà còn đóng vai trò quan trọng trong việc tháo một phần nước lụt của sông Hậu ra biển. Với ý nghĩa này, kênh Thoại Hà (còn có tên kênh Tam Khê, kênh Đông Xuyên hay Đông Xuyên Cảng đạo) nối liền Thoại Sơn (An Giang) với Rạch Giá (Kiên Giang) được xem là công trình thoát lũ đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long. Công cuộc đào kênh Thoại Hà của Nguyễn Văn Thoại còn được ghi rõ trên Bia Thoại Sơn: Mùa thu năm Đinh Sửu (1817), lão thần kính, được vua trao ấn phù giữ trấn Vĩnh Thanh, mùa xuân năm Mậu Dần (1818 ) vâng chỉ đốc suất đào kênh (kinh) Đông Xuyên. Từ ngày thụ mệnh vua, sớm khuya kính sợ, đốn cây rậm, bới bùn lầy, đào kênh dài đến 12.410 tầm, trải qua một tháng thì xong việc, nghiễm nhiên trở thành ra một sông to, luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi. Cùng lúc với việc đào kênh, Thoại Ngọc Hầu chú trọng lập làng, làm đường. Nhờ đó mà nối liền Long Xuyên với vịnh Rạch Giá (Kiên Giang). Năm 1820, Nguyễn Văn Thoại lại cho đào con kênh lớn nối liền Châu Đốc với Hà Tiên. Đây là một công trình vĩ đại do ông thiết kế, huy động đến 80.000 người và phải làm gần 5 năm (1820 - 1824) mới hoàn thành. Kênh này còn là đường ranh giới giữa Việt Nam và Chân Lạp. Trước đó, vào năm 1816, khi thành Châu Đốc được đắp xong, Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường tâu lên, vua Gia Long xem địa đồ miền đất này liền truyền: Xứ này nếu mở đường thủy thông với Hà Tiên, thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở làng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một trấn to vậy. Biết thế, nhưng nhà vua chưa ra lệnh đào ngay vì ngại đây là vùng đất mới mở, nhân dân còn cơ cực, nếu bắt làm xâu thêm khổ sở, lòng dân sẽ không yên. Mãi đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long mới cho lệnh đào kênh, và công việc được bắt đầu khởi công vào tháng chạp năm ấy, trải qua mấy giai đoạn trong suốt 5 năm, đến tháng 5 năm Nhâm Thân (1824), dưới triều vua Minh Mạng thì đào xong. Trước khi khởi đào, vua Gia Long có lời dụ cho dân chúng, vừa động viên vừa chỉ rõ sự lợi ích: "Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng quan hệ chẳng nhỏ, các ngươi ngày nay tuy là chịu khó, nhưng mà lợi ích cho muôn đời về sau. Vậy dân chúng cần bảo nhau cho biết, đừng nên sợ nhọc" Năm 1822, vua Minh Mạng lại có chỉ dụ tương tự: Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta (ý nói vua Gia Long) mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau. Kênh đào song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia, bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc thẳng nối giáp với sông Giang Thành, thuộc thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang Dưới sự chỉ huy của Trấn thủ Vĩnh Thanh Thoại Ngọc Hầu cùng với 2 ông là Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên (1763-1831), Điều Bát Nguyễn Văn Tồn (1763 - 1820). Sau có thêm Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt (1764 - 1832), Phó Tổng trấn thành Gia Định Trần Văn Năng, Thống chế Trần Công Lại góp sức. Ngay trong đợt đầu đã có hơn 10.000 nhân công bao gồm: 5.000 quân dân trong vùng, 500 lính thuộc đồn Uy Viễn, 5.000 dân là người Khmer. Kênh phải qua nhiều đoạn đất cứng khó đào, lại có khi gặp phải thời tiết, khí hậu bất lợi nên có lúc công việc phải gián đoạn hoặc chậm chạp. Biết vậy, ngay khi lên ngôi (1820), vua Minh Mạng lập tức ra lệnh cho Tổng trấn thành Gia định là Lê Văn Duyệt huy động thêm nhiều dân binh ở các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh, Định Tường hơn 39.000 người, trong số đó binh và dân người Khmer 16.000 người, chia làm 3 phiên, đào đắp bằng tay với dụng cụ thô sơ hàng triệu mét khối đất đá... và có khi phải thay nhau thi công suốt ngày đêm... Năm 1824, kênh hoàn thành với chiều dài 205 dặm rưỡi (91km), rộng 7 trượng 5 thước (25m), sâu 6 thước(3m). Ước tính, trong 5 năm, các quan phụ trách đã phải huy động đến hơn 80.000 dân binh. Kênh đào xong đã tưới tiêu cho hàng vạn mẫu ruộng miền Hậu Giang và việc đi lại bằng đường thủy vô cùng thuận lợi. Sách "Đại Nam nhất thống chí" viết rằng : "... Từ ấy, đường sông lưu thông, từ kế hoạch trong nước đến phòng giữ ngoài biên cho tới nhân dân buôn bán đều được tiện lợi vô cùng". Đến bây giờ, kênh vẫn còn giá trị lớn về các mặt trị thuỷ, giao thông, thương mại, biên phòng, thể hiện sức lao động sáng tạo xây dựng đất nước của nhân dân Việt và chính sách coi trọng thủy lợi để phát triển nông nghiệp của triều Nguyễn. Vua Minh Mạng rất hài lòng trước sự thành công của công trình thủy lợi này nên sắc ban cho ngọn núi nhìn xuống dòng kênh cái tên Thoại Sơn (tên dân gian là núi Sập) và cho con kênh mang tên là kênh Vĩnh Tế (tên vợ ông, bà Châu Thị Vĩnh Tế). Triều Nguyễn còn nghĩ đến công lao của Nguyễn Văn Thoại nên lấy tên ông đặt cho tên làng, tên núi, tên sông: Thoại Sơn, Thoại Hà, Thoại Giang. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà vua cho đúc Cửu đỉnh để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên viễn của hoàng gia, hình kênh Vĩnh Tế được chạm khắc vào Cao đỉnh. **3. VẤN ĐỀ XÁC LẬP CHỦ QUYỀN VÀ ĐẢM BẢO AN NINH QUỐC PHÒNG** Thật ra, từ đầu thế kỷ XVIII, vùng khai phá dần mở rộng vào sâu nội địa theo các kênh rạch và theo tiến trình xác lập chủ quyền của các chúa Nguyễn. Hệ thống chính quyền lần lượt ra đời, các đồn lũy bảo vệ đất đai, dân cư của chúa nguyễn mọc lên; hệ thống kênh rạch được nạo vét, đào mới phục vụ cho việc trị an, quốc phòng; chính sách khuyến khích khẩn hoang, lập làng của chính quyền... là những đảm bảo chắc chắn để lưu dân người Việt ngày càng vững tâm tiến vào khai phá lập nghiệp. Từ đó, khu vực miền trung Nam bộ ( bao gồm vùng bắc sông Tiền và vùng nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) về cơ bản đã được khai khẩn xong; vùng Hà Tiên với vai trò bảo hộ của chính quyền và khả năng tổ chức khai phá hiệu quả của dòng họ Mạc cũng đã cơ bản hoàn tất công cuộc tạo dựng và trở nên phát triển. Đất Gia Định đến năm 1756 về cơ bản đã thành hình như trên bản đồ Nam bộ ngày nay. Tuy nhiên, một số vùng dọc theo giữa hai sông, sông Tiền và sông Hậu, và phía đông dọc theo hữu ngạn Hậu Giang là Tầm Phong Long, Tầm Bôn và Xuy Lạp, người Chân Lạp vẫn quản lý. Sự kiện 1757, vua Chân Lạp Preah Outey (Nặc Ông Tôn (1758-1775)) dâng đất Tầm Phong Long, Tầm Bôn và Xuy Lạp đã chính thức hoàn tất quá trình mở đất về phương Nam của các chúa Nguyễn, đánh dấu sự sáp nhập hoàn toàn đất Nam bộ vào lãnh thổ Đại Việt. Ngay trong năm 1757, Nguyễn Cư Trinh xin dời dinh Long Hồ lên xứ Tầm Bào (Vĩnh Long), để tiện cho việc quản lý miền đất mới lấy được. Ông sai lập đạo hai bên sông Cửu Long gần biên giới: Tân Châu đạo (Cù Lao Giêng) ở Tiền Giang và Châu Đốc đạo ở Hậu Giang; lại lập thêm Đông Khẩu đạo, ở xứ Sa Đéc, để làm hậu thuẫn. Các đạo ấy dùng binh ở Long Hồ dinh để trấn áp, giữ mặt vịnh Xiêm La, phòng Xiêm làm hỗn. Nguyễn Cư Trinh còn phối hợp với Mạc Thiên Tứ đặt ra Kiên Giang đạo ở Rạch Giá và Long Xuyên đạo ở vùng Cà Mau, nhằm đẩy mạnh khai phá và đảm bảo an ninh quốc phòng. Xác lập chủ quyền bằng đường biên giới, khu vực chịu ảnh hưởng chỉ là bước đầu, việc đưa dân tới sinh sống, biến vùng đất thành nơi cư trú, sinh sống, sản xuất mới là yếu tố quyết định chủ quyền đối với vùng đất đó. Vì thế với vai trò của Nguyễn Cư Trinh, của Nguyễn Văn Thoại cùng với những chủ trương, biện pháp đầy sáng tạo của các ông đối với đất Tầm Phong Long; với bàn tay và khối óc lao động cần cù, dũng cảm của các cộng đồng cư dân người Việt, người Hoa, người Khmer trong hơn một thế kỷ (từ giữa thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX) là những nhân tố vô cùng có ý nghĩa trong việc khẳng định vai trò cũng như chủ quyền của người Việt tại đây. Nhận thức của vua Gia Long và vua Minh Mạng khi cho tiến hành đào kênh Vĩnh Tế đã phản ánh nhãn quan chính trị và quyết tâm sắt đá của nhà Nguyễn đối với vấn đề chủ quyền và an ninh trật tự ở vùng biên cương tây nam "Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng quan hệ chẳng nhỏ, các ngươi ngày nay tuy là chịu khó, nhưng mà lợi ích cho muôn đời về sau. Vậy dân chúng cần bảo nhau cho biết, đừng nên sợ nhọc" . Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta (ý nói vua Gia Long) mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau. Đất Tầm Phong Long từ khi sỏp nhập vào lãnh thổ Đại Việt đó hoàn tất quá trình xác lập lãnh thổ trên đất Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Từ đây, bản đồ Đàng Trong của các chúa Nguyễn đó hoàn chỉnh và phân định rạch ròi với các quốc gia láng giềng. Công cuộc khai phá đất đai, phát triển hệ thống kênh rạch, ổn định hệ thống hành chính trên vùng đất mới từ năm 1757 đến giữa thế kỷ XIX của chính quyền và nhân dân đã khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt (Việt Nam sau này ). --- Chú thích : (1) Nguyễn Văn Hầu – Thoại Ngọc hầu và những cuộc khai phá miền Hậu Giang, nxb Trẻ, 2006. (2) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, 1998, tr. 80. (3) Quốc sử quán nhà Nguyễn – Đại Nam nhất thống chí, tập V. (4) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, tr. 50,51. (5) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, tr.80. (6) Trịnh Hoài Đức – Gia Định thành thông chí, Viện Sử học, nxb Giáo dục, tr.59.

Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh và vùng đất Tầm Phong Long

Nguyễn Hữu Hiếu

Nói đến công lao khai mở đất Nam Bộ của tiền nhân trong hai thế kỷ XVII và XVIII, chúng ta không thể quên công lao to lớn của các nhân vật: Nguyễn Hữu Cảnh (đối với vùng Sài Gòn và miền Đông Nam Bộ), Mạc Cửu (với vùng Hà Tiên) và Nguyễn Cư Trinh (đối với đồng bằng sông Cửu Long).

Vùng đồng bằng sông Cửu Long nổi tiếng là trù phú nhứt nước. Trong mấy trăm năm qua, con người ở đây luôn biểu thị sự năng động, sáng tạo trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở vùng đất được tiền nhân tiếp thu vào năm 1757.

Tròn 250 năm kể từ khi Đông Khẩu Đạo ra đời (tính đến năm 2007), đây là vùng đất sau cùng được nội thuộc vào lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam, chúng ta hướng về Nghi biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh – người có nhiều đóng góp cho sự hình thành sự kiện quan trọng này.

Nguyễn Cư Trinh quê ở xã An Hòa, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế), sanh năm Bính Thìn 1716, tên chữ là Nghi, hiệu Đạm Am, con út của danh sĩ Nguyễn Đăng Đệ - Ký lục tỉnh Quảng Nam dưới triều Chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725), nổi tiếng học giỏi từ nhỏ và thanh liêm, công bằng chính trực lúc làm quan.

Cũng như cha, ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, hiếu học. Năm Canh Thìn (1740) đỗ Hương cống, được bổ làm Tri phủ huyện Triệu Phong ( Quảng Trị). Sau đó được thăng chức Văn chức, về làm việc tại triều. Ông chẳng những thanh liêm, chính trực như cha mà còn dám nói thẳng, dám can gián Chúa không hề sợ sệt. Bạn đồng liêu thường cho ông là một Tranh thần. Ông còn là một vị quan nhiều mưu lược, phán đoán sự việc chính xác nên thường xuyên được Chúa mời hỏi ý kiến về các vấn đề quốc quân trọng đại và phụ trách soạn thảo chiếu chỉ cho Chúa.

Dưới thời Chúa Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765), miền Tây Quảng Ngãi thường xuyên bị bọn cướp quấy phá, gây rối ở biên giới, quan địa phương không ổn định được tình hình. Năm Canh Ngọ (1750), Nguyễn Cư Trinh được điều tới làm Tuần phủ, với nhiệm vụ trọng tâm là tiểu trừ giặc cướp, ổn định an ninh biên giới.

Đến nơi, trước tiên ông dùng lời kêu gọi, phủ dụ, khuyên chúng từ bỏ việc cướp bóc, nhưng không kết quả. Ông đành dùng tới biện pháp quân sự, cho lập đồn lũy bố phòng nơi hiểm yếu, đồng thời cho xây dựng đồn điền thực hiện chánh sách kết hợp kinh tế với an ninh quốc phòng lâu dài. Để khích lệ binh sĩ và nhân dân trong vùng, ông biên soạn và cho phổ biến rộng rãi quyển “Sải Vải” [1] để động viên, khích lệ tinh thần vượt khó, chiến đấu diệt giặc an dân của binh sĩ. Binh sĩ và nhân dân phấn khởi hưởng ứng. Trước tình thế đó, bọn giặc cướp lần lượt kéo ra quy phục. Chúa hết lời khen ngợi.

Năm 1751, vào mùa rét, nhân dân địa phương đói khổ, ông dâng sớ về triều với nội dung: “Dân là gốc của nước, gốc không bền thì nước chẳng yên. Ngày bình thường không lấy ân kết dân, thì lúc có việc trông cậy, nương tựa vào đâu?” để khuyên Chúa nên có chánh sách thân dân. Nhân đó, ông còn khuyên Chúa hãy bài trừ bốn tệ nạn tồn tại từ lâu:

  • Các quan địa phương thường hay gây phiền hà cho dân chúng trong việc kiện cáo và nộp thuế.

  • Tệ nạn tham nhũng thường xảy ra qua việc bắt giam, xét hỏi người phạm tội.

  • Ẩn lậu thuế đinh.

  • Lợi dụng việc quan làm xáo trộn, thiệt hại đến đời sống yên bình của nhân dân.

Sớ dâng lên nhưng không thấy Chúa có phản ứng gì, ông nộp sớ xin từ nhiệm. Nhận được sớ sau, Chúa liền điều ông đi đảm nhiệm chức Ký lục ở dinh Bố chánh.

Năm Quý Dậu 1753, quân Chân Lạp hiếp đáp người Côn Man (tức người Chiêm Thành (Chàm/Chăm) sang cư ngụ bên Chân Lạp từ năm 1692) và xâm phạm biên giới, Chúa Võ Vương Nguyễn Phước Khoát sai Thiện Chính (có thể là Nguyễn Hữu Doãn?) làm Thống suất, Nguyễn Cư Trinh làm Tham mưu, chỉ huy binh sĩ 5 dinh. [2] Hai ông tập trung quân ở Bến Nghé (Sài Gòn) để ổn định đội ngũ, tích trữ lương thảo chuẩn bị chiến đấu.

Mùa hạ năm Giáp Dần 1754, Nguyễn Cư Trinh và Thiện Chính kéo quân đi hai ngã. Cánh quân do Nguyễn Cư Trinh chỉ huy đi đến đâu chiến thắng đến đó, giải thoát người Côn Man đưa về nước.

Đầu năm Ất Hợi 1755, cánh quân của Thiện Chính trên đường kéo về Mỹ Tho có người Côn Man đi theo, đến vùng Vô-tà-ân (có thể là vùng Đồng Tháp Mười) thì bị quân Chân Lạp đánh úp. Do địa thế sình ừây, rừng tràm rậm rạp, Thiện Chính không ứng phó được, Nguyễn Cư Trinh kịp thời đưa quân đến cứu được 5.000 người vừa đàn ông lẫn đàn bà đưa về cho cư ngụ dưới chân núi Bà Đen (Tây Ninh). Thiện Chính bị Chúa khiển trách, giáng chức và đưa Trương Phước Du thay thế. Nguyễn Cư Trinh cùng Trương Phước Du tiếp tục tiểu phạt Ba Nam, rồi Nam Vang. Nặc Nguyên, Quốc vương Chân Lạp, chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ, dâng hai phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công) xin hàng. Song Chúa Võ Vương chưa thuận.

Nguyễn Cư Trinh dâng sớ về Triều bày mọi lẽ thiệt hơn và đề ra kế sách mở mang vùng đất Tây Nam:

“Từ xưa, việc dụng binh chẳng qua là muốn diệt kẻ hung ác, mở rộng bờ cõi mà thôi. Nay Nặc Nguyên hối lỗi, dâng đất tỏ lòng thành. Nếu không cho nó hàng, nó sẽ bỏ trốn, mà đường từ Gia Định đến La Bích xa xôi khó lòng đuổi theo. Nay muốn mở rộng bờ cõi, nên lấy hai phủ ấy trước để giữ vững phía sau lưng hai dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn). Trước đây, khi lập phủ Gia Định, trước cũng lấy Hương Phúc (Biên Hòa) rồi sau mới mở đến Phủ Lộc Giả (Đồng Nai) để cho quân dân quần tụ ngày một đông, rồi sau đó mới mở đất Sài Côn (Sài Gòn). Đó là kế “tầm ăn dâu”.

Nay đất cũ từ Hương Phúc đến Sài Gòn chỉ mất hai ngày đường mà dân cư còn thưa thớt chưa yên, vì không đủ binh lính bảo vệ. Còn nay, từ Sài Gòn đến Tầm Bôn mất 6 ngày đường, làm sao đủ binh quân trấn thủ?.

Thần thấy người Côn Man có ưu thế về bộ chiến, làm người Chân Lạp thấy thế cũng sợ. Nếu cho người Côn Man đến trấn thủ đất ấy chống lại người Chân Lạp thì thật là đắc sách. Vậy xin cho Nặc Nguyên chuộc tội và lấy hai phủ ấy. Xin giao cho thần xem xét địa thế, đặt lũy, đóng quân, biên chế, chia cấp điền sản cho dân, quân, chia vạch ranh giới, cho nhập vào châu Định Viễn để thâu cả toàn bức.” [3]

Thấy rõ, đây quả thật là kế sách lâu dài mang lại lợi ích cho nước cho dân, Võ Vương liền chuẩn tấu.

Năm Đinh Sửu (1757), Nặc Nguyên mất. Chú họ là Nặc Nhuận đang làm Giám quốc xin hiến đất Srok Treang (tức đất Ba Thắc gồm Sóc Trăng, Bạc Liêu) và Préah Trapeang (tức đất Trà Giang gồm Trà Vinh - Bến Tre) cầu xin Chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ Vương chấp thuận.

Nhưng liền sau đó Nặc Nhuận bị con rễ là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Cháu Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ tâu với Chúa Nguyễn xin được phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ Vương thuận cho, và sai Thống suất Ngũ dinh tại Gia Định là Trương Phước Du hợp cùng Mạc Thiên Tứ mang quân đánh dẹp Nặc Hinh, đưa Nặc Tôn về nước và được phong làm Phiên Vương.

Để tạ ơn, Nặc Tôn cắt đất Tầm Phong Long (tức vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu về phía Bắc) dâng cho Chúa Nguyễn. Để quản lý vùng đất mới có hiệu quả, Nguyễn Cư Trinh xin Võ Vương cho thành lập tại đây ba đạo và nhập vào dinh Long Hồ: [4]

  • Châu Đốc Đạo: bao gồm phần đất phía Tây Bắc sông Hậu, trị sở đóng ở cù lao Châu Giang.

  • Tân Châu Đạo: bao gồm phần đất của các huyện Chợ Mới, Phú Tân, Phú Châu và Tan Châu của tỉnh An Giang ngày nay, như những c hiếc chiến hạm khổng lồ nằm án ngữ trên dòng Cửu Long để ngăn chận sự xâm nhập từ hứng Chân Lạp (Campuchia ngày nay). Trị sở lúc đầu đóng trên cù lao Giêng, sau dời về thôn Long Sơn trên cù lao Cái Vừng.

  • Đông Khẩu Đạo: bao gồm các huyện Châu Thành, thị xã Sa Đéc, huyện Lai Vung và huyện Lấp Vò của tỉnh Đồng Thấp ngày nay. Trị sở đồn trú tại Sa Đéc (thôn Vĩnh Phước).

Dưới thời các Chúa Nguyễn, đạo là phân hạt hành chánh dưới Trấn và Dinh, giành cho những vùng đất mới tiếp quản, mới khai hoang. Dĩ nhiên là ở đây chưa có bộ máy hành chính, cơ sở hoàn chỉnh, nên phải giao cho các đơn vị quân đội quản lý (hình thức quân quản), cho đến khi thiết lập xong bộ máy quản lý hành chánh dân sự mới trở thành đơn vị hành chánh cấp huyện.

Ngay sau khi thành lập, Châu Đốc Đạo, Tân Châu Đạo và Đông Khẩu Đạo đặt dưới sự quản lý của dinh Long Hồ, đứng đầu là Nguyễn Cư Trinh. Dinh Long Hồ lập năm 1732 (còn gọi là Cái Bè dinh, vì đóng tại Cái Bè). Năm 1800 đổi thành Vĩnh Trấn. Năm 1808 đổi thành trấn Vĩnh Thanh. Đến năm 1836 chia thành hai tỉnh là Vĩnh Long và An Giang. Lúc này Tân Châu Đạo thuộc huyện Đông Xuyên và Đông Khẩu Đạo thuộc huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang.

Để có phán ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nghi Biều hầu Nguyễn Cư Trinh cho dời trị sở của dinh Long Hồ từ An Bình Đông (Cái Bè) về xứ Tầm Bào (thuộc thôn Long Hồ, thị xã Vĩnh Long ngày nay), sát bờ sông Tiền, dòng rông rộng, chiến thuyền dễ dàng tiến thoái hơn ở sông Cái Bè. Từ đây, dinh Long Hồ có Đông Khẩu Đạo án ngữ làm tiền đồn thứ hai sau Tân Châu đạo bảo vệ.

Vùng đất Đông Khẩu Đạo được lưu dân người Việt, người Hoa khai thác từ lâu, nay chính thức nội thuộc chủ quyền người Việt của Chúa Nguyễn (Đàng Trong). Sự kiện này là điều kiện vô cùng thuận lợi cho công cuộc khai mở cương vực của Tổ quốc về phương Nam, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long và cả Nam Bộ. Đây là vùng đất màu mỡ “sông sâu nước chảy”, nằm giữa sông Tiền, sông Hậu, chiếm vị trí trung tâm của Nam Bộ, là đầu cầu nối liền miền Đông và miền Tây Nam Bộ.

Từ đây người Việt, người Hoa chánh thức khai thác, làm ăn, mua bán… Chẳng bao lâu, trên địa bàn của đất Đông Khẩu Đạo thành lập được trên 60 thôn làng. Dân cư tập trung ngày một đông, nhiều tụ điểm cư dân hình thành ở hai bên bờ sông Tiền, sông Hậu: Cường Oai (Lai Vung), Cường Thành (Lấp Vò)… Sa Đéc hình thành từ lâu, trước khi Đông Khẩu Đạo ra đời, nay lại có điều kiện phát triển hơn với phố thị buôn bán tấp nập, trở thành một trung tâm thương mại lớn ở đồng bằng sông Cửu Long lúc bấy giờ. Bên cạnh đình, chùa, miếu mạo của người Việt là chùa Ông (Kiến An Cung, Thạnh Đức Cung, Nghê Thanh Cung), chùa Bà (Thiên Hậu) và các miếu vạn, miếu tổ nghề của người Hoa… Chính vì vậy mà vào đầu thế kỷ XVIII, Trịnh Hoài Đức đã mô tả chợ Sa Đéc:

“… Phố chợ dọc theo hai bờ sông, nhà cửa hai bên móc nối chọi mái san sát như vãy cá liên tiếp kéo dài cả năm dặm, dưới sông có nhà làm trên bè tre, gác làm phòng ốc, đậu thành hàng dài sát nhau, buôn bán tơ lụa, trừu, đoạn, đồ dùng từ Nam Bắc chở đến, hoặc bán dầu rái, than, mây, tre, cá, khô, mắm… trên bờ dưới sông trăm thứ hàng hóa tốt đẹp. Thật là nơi phồn hoa tráng lệ, nhìn lóa mắt thỏa lòng”.

Phát triển thạnh mậu của chợ Sa Đéc là bước ngoặt quan trọng trong tiến trình kinh tế - xã hội của Đông Khẩu Đạo và cả đồng bằng sông Cửu Long . Nó đánh dấu thành công bước đầu của công cuộc khai hoang, kích thích vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tây sông Hậu phát triển, nó còn là chợ đầu mối tập trung hàng hóa chuyển đi Mỹ Tho, Sài Gòn, Nam Vang… góp phần hình thành nền kinh tế hàng hóa ở khu vực.

Để bảo vệ vùng đất mới tiếp thu, tại đây được xây dựng một đồn lớn giữa hai sông làm trung tâm kiêm quản luôn cả hai đạo thủ Chiến Sai (thuộc trấn Vĩnh Thanh, tức dinh Long Hồ trước đó) và Đạo thủ Hồng Ngự (thuộc trấn Định Tường. Do đồn Tân Châu vừa trú đóng nơi địa đầu hiểm yếu, vừa cai quản hai Đạo thủ khác nên Tân Châu không thuộc quyền cai quản của trấn địa phương là Vĩnh Thanh mà trực tiếp thuộc quyền điều động của Gia Định thành. Điều đó cho thất địa thế hiểm yếu của Tân Châu trong việc bảo vệ tuyến biên giới Tây Nam. Trên tuyến này, từ Tây Ninh đến Hà Tiên, Nguyễn Cư Trinh cho bố trí các đồn thủ biên phòng Quang Hóa (Tây Ninh, Tuyên Oai, Thông Bình, Hùng Ngự (Định Tường), làm bức tường bảo vệ biên giới phía Bắc Đồng Tháp Mười, nối liền với các đồn Tân Châu, Chiến Sai, Châu Đốc (An Giang).

Để ngăn ngừa quân Xiêm đổ bộ ở vùng vịnh Xiêm La, ngoài trấn Hà Tiên, ông cùng Mạc Thiên Tứ quy hoạch và thành lập trên vùng đất Cà Mau-Rạch Giá ngày nay hai đạo Long Xuyên và An Giang.

Ông còn quan tâm đến tình hình an ninh trật tự ảnh hưởng đến đời sống nhân dân trên vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long. Lúc bấy giờ bọn cướp thường lợi dụng những nơi quanh co doi, vịnh… trên sông rạch để làm nơi ẩn núp rồi bất thần xông ra đánh cướp các ghe thương hồ. Để ngăn chận tệ nạn này, ông quy định chánh quyền địa phương ở các trấn, các hạt lịnh cho các chủ ghe phải khắc tên họ quê quán mình trước mũi phương tiện và có sổ đăng ký với quan sở tại để tiện việc khám xét, kiểm tra. Từ đó nạn cướp giựt trên sông nước (còn gọi là Bối) ở đồng bằng sông Cửu Long giảm đi.

Do có công lao to lớn, nên khi Định Vương Nguyễn Phước Thuần lên kế vị, Nguyễn Cư Trinh được triệu về Triều thăng làm Tào vận sứ ở Bộ Lại. Chúa Định Vương lúc bấy giờ mới 12 tuổi, mọi việc quốc quân trọng đại đều do tả ngoại Trương Phúc Loan nắm giữ, thao túng, có lúc ông này triệu các quan về tư dinh bàn việc. Nguyễn Cư Trinh liền lên tiếng phản đối: “Bàn việc gì tất phải ở chốn công đường, đó là định lệ, Phước Loan sau dám vô lễ như thế? Hắn muốn tiếm quyền ư? Thật hắn là kẻ làm loạn thiên hạ sau này”.

Nghe ông nói vậy, các quan không ai dám đi. Loan trong bụng giận lắm,; nhưng biết ông là người ai cũng kính sợ, nên không dám làm hại. [5]

Ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm chính trực. Ngoài công lao to lớn trong việc khai hoang mở cõi ở phương Nam với việc doanh điền, mở nước, an dân, ông còn là một nhà chánh trị tài ba với nhiều kế sách thiết thực, một nhà ngoại giao lỗi lạc đạt nhiều thành quả lớn, một nhà thơ. Ông thường xướng họa ngâm vịnh với Mạc Thiên Tứ và các danh sĩ khác trong nhóm Tao Đàn Chiêu anh các ở Hà Tiên, nổi tiếng với những bài thơ họa trong quyển “Hà Tiên thập cảnh vịnh”.

Ông mất vào năm Đinh Hợi (1767), hưởng 51 tuổi, được truy tựng Tá lý công thần, Vĩnh lộc đại phu, thụy Văn Định. Đến thời Minh Mạng, ông lại được truy tặng Khai quốc công thần, Hiệp biện Đại học sĩ, đổi tên thụy, truy phong tước Tân Minh hầu là Văn Cách, cho tòng tự tại Thái Miếu. [6]

Trong cuộc nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh (1777-1802), vị trí và vai trò của Đông Khẩu Đạo càng nổi rõ lên. Sau bao nhiêu lần thảm bại trước Tây Sơn, năm 1788 Nguyễn Ánh về căn cứ ở Tân Long, Long Hưng, kề cận Sa Đéc. Thế đất vùng Đông Khẩu Đạo đã góp phần giúp Nguyễn Ánh đánh bật Tây Sơn ra khỏi Nam Bộ, làm đà cho công cuộc phục thù của họ Nguyễn. Trong cuộc nội chiến này, vô hình trung biến vùng Đông Khẩu Đạo thành nơi tập trung một số môn đồ Nho học ở đồng bằng sông Cửu Long vốn là quan tướng của Nguyễn Ánh. Điều này tác động không nhỏ đến quá trình hình thành bản sắc văn hóa địa phương.

Trong và sau nội chiến, vùng Đông Khẩu Đạo đón nhận thêm nhiều đợt lưu dân mới cùng với binh sĩ Tây Sơn tan rã tại chỗ nên không lạ gì khi thấy tốc độ và diện tích đất ở đây mở rộng nhanh hơn và nhiều hơn nơi khác. Trong cuộc đo đac địa chính năm 1836, cho thấy toàn Nam Kỳ có 5 thôn với diện tích trên 4.000 mẫu ruộng đất thực canh, thì vùng này chiếm hết hai thôn, trong đó thôn Tân Hựu (nay thuộc xã Tân Nhuận Đông) có diện tích lớn nhứt Nam Kỳ và một số thôn khác như Tân Long, Long Hậu, Tân Lộc, Vĩnh Phước… Hầu hết các thôn này đều nằm chung quanh thôn Long Hưng, nơi đóng căn cứ của Nguyễn Ánh trước đây. Điều kiện khách quan thuận lợi, đất lành chim đậu, đất tốt dân đông, biết thâm canh làm thủy lợi, với Mương Đào (tức Cái Bè cạn), rạch Cai Bường, rạch Cai Quản… nước chảy thông thương từ sông Tiền sang sông Hậu, Lấp Vò, Cái Dầu, Định Yên), Long Hậu lần hồi phát triển thành những tụ điểm dân cư quan trọng quanh Sa Đéc sát bờ sông Hậu. Ở mặt sông Tiền từ Cái Tàu Hạ trở xuống là khu dân cư trù mật, người Hoa cùng với người Việt làm ruộng rẫy, trao đổi mua bán... hình thành các tụ điểm Hội An, Tòng Sơn, Đất Sét, Cái Tàu Hạ... góp phần làm nên sự phồn thịnh của Đông Khẩu Đạo, làm cơ sở cho sự phát triển sau này của các huyện Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò và thị xã Sa Đéc của tỉnh Đồng Tháp.

Ghi nhớ công lao mở cõi về phương Nam của Nghi Biểu hầu Nguyễn Cư Trinh, trong sách Đại Nam liệt truyện, viết về ông có đọan: “Cư Trinh là người có đủ tài thao lược, lại hay quyết đoán, kiến nghị việc gì đều là những câu trung thực, chính đáng, tới khi tham gia vào việc quan lữ, mở rộng đất đai phương Nam, giữ vững chốn biên thùy yên ổn thì công lao danh vọng thực là việc có một thời. Về phần thơ văn lại càng lão luyện như: “Đạm Am tập” là tập văn chương rất có giá trị, lưu truyền mãi đến ngày nay”. [7]

Tiếp thu vùng đất Tầm Phong Long và sự ra đời của các Đạo: Châu Đốc, Tân Châu, Đông Khẩu, Kiên Giang và Long Xuyên là một trong những sự kiện đặc biệt trong lịch sử dân tộc. Nó vừa góp phần mở rộng cương vực của Tổ quốc ta về phương Nam, vừa đánh dấu kết thúc diễn trình Nam tiến của dân tộc ta trong 775 năm (982-1757); kể từ khi Vua Lê Đại Hành mang quân trừng phạt Chiêm Thành vào năm 982 về việc nước này bắt giam sứ ta và âm mưu liên minh quân sự với nhà Tống để xâm lược nước tra.

Suốt 250 năm qua (1757-2007), các thế hệ tiền nhân đã tốn biết bao nhiêu công sức, máu xương để xây dựng, thành lập và bảo vệ vùng đất này, chuyển lại cho chúng ta hôm nay. Kỷ niệm 250 năm ngày ra đời của sự kiện lịch sử quan trọng này không chỉ bày tỏ lòng tri ơn đối với tiền nhân mà thế hệ hôm nay cũng như các thế hệ mai sau nguyện ra sức bảo vệ và xây dựng vùng đất này ngày càng phồn vinh để khỏi phụ lòng tổ tiên vậy.


Chú thích:

[1] Là một tập thơ Nôm, gồm 340 câu đôi ghi lại sự đối đáp giữa Sải và Vải nhằm động viên tinh thần binh sĩ trong việc dẹp giặc, trừ hại cho dân. Qua đó ông đề cao, chấn chỉnh Nho giáo và phê phán bọn tu hành giả hiệu.

[2] Năm dinh ấy là: Bình Khang (Khánh Hòa); Bình Thuận, Trấn Biên (Biên Hòa, Bà Rịa); Phiên Trấn(Gia Định); Long Hồ (Mỹ Tho, Vĩnh Long).

[3] Quốc sử quan: Đại Nam liệt truyện, tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế 1997, tr.161,162

[4] Trịnh Hoài Đức- Gia Định thành thông chí, tập Trung, tr.16.

[5] Nguyễn Cư Trinh: Sải Vải, Sđd, tr.51-52.

[6] Nguyễn Quyết Thắng – Nguyến Bá Thế: Từ điển nhân vật Lịch sử Việt Nam.

[7] Quốc sử quan: Đại Nam liệt truyện, tập 1, tr.153.

## Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh và vùng đất Tầm Phong Long #### Nguyễn Hữu Hiếu Nói đến công lao khai mở đất Nam Bộ của tiền nhân trong hai thế kỷ XVII và XVIII, chúng ta không thể quên công lao to lớn của các nhân vật: Nguyễn Hữu Cảnh (đối với vùng Sài Gòn và miền Đông Nam Bộ), Mạc Cửu (với vùng Hà Tiên) và Nguyễn Cư Trinh (đối với đồng bằng sông Cửu Long). Vùng đồng bằng sông Cửu Long nổi tiếng là trù phú nhứt nước. Trong mấy trăm năm qua, con người ở đây luôn biểu thị sự năng động, sáng tạo trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở vùng đất được tiền nhân tiếp thu vào năm 1757. Tròn 250 năm kể từ khi Đông Khẩu Đạo ra đời (tính đến năm 2007), đây là vùng đất sau cùng được nội thuộc vào lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam, chúng ta hướng về Nghi biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh – người có nhiều đóng góp cho sự hình thành sự kiện quan trọng này. Nguyễn Cư Trinh quê ở xã An Hòa, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế), sanh năm Bính Thìn 1716, tên chữ là Nghi, hiệu Đạm Am, con út của danh sĩ Nguyễn Đăng Đệ - Ký lục tỉnh Quảng Nam dưới triều Chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725), nổi tiếng học giỏi từ nhỏ và thanh liêm, công bằng chính trực lúc làm quan. Cũng như cha, ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, hiếu học. Năm Canh Thìn (1740) đỗ Hương cống, được bổ làm Tri phủ huyện Triệu Phong ( Quảng Trị). Sau đó được thăng chức Văn chức, về làm việc tại triều. Ông chẳng những thanh liêm, chính trực như cha mà còn dám nói thẳng, dám can gián Chúa không hề sợ sệt. Bạn đồng liêu thường cho ông là một Tranh thần. Ông còn là một vị quan nhiều mưu lược, phán đoán sự việc chính xác nên thường xuyên được Chúa mời hỏi ý kiến về các vấn đề quốc quân trọng đại và phụ trách soạn thảo chiếu chỉ cho Chúa. Dưới thời Chúa Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765), miền Tây Quảng Ngãi thường xuyên bị bọn cướp quấy phá, gây rối ở biên giới, quan địa phương không ổn định được tình hình. Năm Canh Ngọ (1750), Nguyễn Cư Trinh được điều tới làm Tuần phủ, với nhiệm vụ trọng tâm là tiểu trừ giặc cướp, ổn định an ninh biên giới. Đến nơi, trước tiên ông dùng lời kêu gọi, phủ dụ, khuyên chúng từ bỏ việc cướp bóc, nhưng không kết quả. Ông đành dùng tới biện pháp quân sự, cho lập đồn lũy bố phòng nơi hiểm yếu, đồng thời cho xây dựng đồn điền thực hiện chánh sách kết hợp kinh tế với an ninh quốc phòng lâu dài. Để khích lệ binh sĩ và nhân dân trong vùng, ông biên soạn và cho phổ biến rộng rãi quyển “Sải Vải” [1] để động viên, khích lệ tinh thần vượt khó, chiến đấu diệt giặc an dân của binh sĩ. Binh sĩ và nhân dân phấn khởi hưởng ứng. Trước tình thế đó, bọn giặc cướp lần lượt kéo ra quy phục. Chúa hết lời khen ngợi. Năm 1751, vào mùa rét, nhân dân địa phương đói khổ, ông dâng sớ về triều với nội dung: “Dân là gốc của nước, gốc không bền thì nước chẳng yên. Ngày bình thường không lấy ân kết dân, thì lúc có việc trông cậy, nương tựa vào đâu?” để khuyên Chúa nên có chánh sách thân dân. Nhân đó, ông còn khuyên Chúa hãy bài trừ bốn tệ nạn tồn tại từ lâu: - Các quan địa phương thường hay gây phiền hà cho dân chúng trong việc kiện cáo và nộp thuế. - Tệ nạn tham nhũng thường xảy ra qua việc bắt giam, xét hỏi người phạm tội. - Ẩn lậu thuế đinh. - Lợi dụng việc quan làm xáo trộn, thiệt hại đến đời sống yên bình của nhân dân. Sớ dâng lên nhưng không thấy Chúa có phản ứng gì, ông nộp sớ xin từ nhiệm. Nhận được sớ sau, Chúa liền điều ông đi đảm nhiệm chức Ký lục ở dinh Bố chánh. Năm Quý Dậu 1753, quân Chân Lạp hiếp đáp người Côn Man (tức người Chiêm Thành (Chàm/Chăm) sang cư ngụ bên Chân Lạp từ năm 1692) và xâm phạm biên giới, Chúa Võ Vương Nguyễn Phước Khoát sai Thiện Chính (có thể là Nguyễn Hữu Doãn?) làm Thống suất, Nguyễn Cư Trinh làm Tham mưu, chỉ huy binh sĩ 5 dinh. [2] Hai ông tập trung quân ở Bến Nghé (Sài Gòn) để ổn định đội ngũ, tích trữ lương thảo chuẩn bị chiến đấu. Mùa hạ năm Giáp Dần 1754, Nguyễn Cư Trinh và Thiện Chính kéo quân đi hai ngã. Cánh quân do Nguyễn Cư Trinh chỉ huy đi đến đâu chiến thắng đến đó, giải thoát người Côn Man đưa về nước. Đầu năm Ất Hợi 1755, cánh quân của Thiện Chính trên đường kéo về Mỹ Tho có người Côn Man đi theo, đến vùng Vô-tà-ân (có thể là vùng Đồng Tháp Mười) thì bị quân Chân Lạp đánh úp. Do địa thế sình ừây, rừng tràm rậm rạp, Thiện Chính không ứng phó được, Nguyễn Cư Trinh kịp thời đưa quân đến cứu được 5.000 người vừa đàn ông lẫn đàn bà đưa về cho cư ngụ dưới chân núi Bà Đen (Tây Ninh). Thiện Chính bị Chúa khiển trách, giáng chức và đưa Trương Phước Du thay thế. Nguyễn Cư Trinh cùng Trương Phước Du tiếp tục tiểu phạt Ba Nam, rồi Nam Vang. Nặc Nguyên, Quốc vương Chân Lạp, chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ, dâng hai phủ Tầm Bôn (Tân An) và Lôi Lạp (Gò Công) xin hàng. Song Chúa Võ Vương chưa thuận. Nguyễn Cư Trinh dâng sớ về Triều bày mọi lẽ thiệt hơn và đề ra kế sách mở mang vùng đất Tây Nam: “Từ xưa, việc dụng binh chẳng qua là muốn diệt kẻ hung ác, mở rộng bờ cõi mà thôi. Nay Nặc Nguyên hối lỗi, dâng đất tỏ lòng thành. Nếu không cho nó hàng, nó sẽ bỏ trốn, mà đường từ Gia Định đến La Bích xa xôi khó lòng đuổi theo. Nay muốn mở rộng bờ cõi, nên lấy hai phủ ấy trước để giữ vững phía sau lưng hai dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn). Trước đây, khi lập phủ Gia Định, trước cũng lấy Hương Phúc (Biên Hòa) rồi sau mới mở đến Phủ Lộc Giả (Đồng Nai) để cho quân dân quần tụ ngày một đông, rồi sau đó mới mở đất Sài Côn (Sài Gòn). Đó là kế “tầm ăn dâu”. Nay đất cũ từ Hương Phúc đến Sài Gòn chỉ mất hai ngày đường mà dân cư còn thưa thớt chưa yên, vì không đủ binh lính bảo vệ. Còn nay, từ Sài Gòn đến Tầm Bôn mất 6 ngày đường, làm sao đủ binh quân trấn thủ?. Thần thấy người Côn Man có ưu thế về bộ chiến, làm người Chân Lạp thấy thế cũng sợ. Nếu cho người Côn Man đến trấn thủ đất ấy chống lại người Chân Lạp thì thật là đắc sách. Vậy xin cho Nặc Nguyên chuộc tội và lấy hai phủ ấy. Xin giao cho thần xem xét địa thế, đặt lũy, đóng quân, biên chế, chia cấp điền sản cho dân, quân, chia vạch ranh giới, cho nhập vào châu Định Viễn để thâu cả toàn bức.” [3] Thấy rõ, đây quả thật là kế sách lâu dài mang lại lợi ích cho nước cho dân, Võ Vương liền chuẩn tấu. Năm Đinh Sửu (1757), Nặc Nguyên mất. Chú họ là Nặc Nhuận đang làm Giám quốc xin hiến đất Srok Treang (tức đất Ba Thắc gồm Sóc Trăng, Bạc Liêu) và Préah Trapeang (tức đất Trà Giang gồm Trà Vinh - Bến Tre) cầu xin Chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ Vương chấp thuận. Nhưng liền sau đó Nặc Nhuận bị con rễ là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Cháu Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ tâu với Chúa Nguyễn xin được phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ Vương thuận cho, và sai Thống suất Ngũ dinh tại Gia Định là Trương Phước Du hợp cùng Mạc Thiên Tứ mang quân đánh dẹp Nặc Hinh, đưa Nặc Tôn về nước và được phong làm Phiên Vương. Để tạ ơn, Nặc Tôn cắt đất Tầm Phong Long (tức vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu về phía Bắc) dâng cho Chúa Nguyễn. Để quản lý vùng đất mới có hiệu quả, Nguyễn Cư Trinh xin Võ Vương cho thành lập tại đây ba đạo và nhập vào dinh Long Hồ: [4] - Châu Đốc Đạo: bao gồm phần đất phía Tây Bắc sông Hậu, trị sở đóng ở cù lao Châu Giang. - Tân Châu Đạo: bao gồm phần đất của các huyện Chợ Mới, Phú Tân, Phú Châu và Tan Châu của tỉnh An Giang ngày nay, như những c hiếc chiến hạm khổng lồ nằm án ngữ trên dòng Cửu Long để ngăn chận sự xâm nhập từ hứng Chân Lạp (Campuchia ngày nay). Trị sở lúc đầu đóng trên cù lao Giêng, sau dời về thôn Long Sơn trên cù lao Cái Vừng. - Đông Khẩu Đạo: bao gồm các huyện Châu Thành, thị xã Sa Đéc, huyện Lai Vung và huyện Lấp Vò của tỉnh Đồng Thấp ngày nay. Trị sở đồn trú tại Sa Đéc (thôn Vĩnh Phước). Dưới thời các Chúa Nguyễn, đạo là phân hạt hành chánh dưới Trấn và Dinh, giành cho những vùng đất mới tiếp quản, mới khai hoang. Dĩ nhiên là ở đây chưa có bộ máy hành chính, cơ sở hoàn chỉnh, nên phải giao cho các đơn vị quân đội quản lý (hình thức quân quản), cho đến khi thiết lập xong bộ máy quản lý hành chánh dân sự mới trở thành đơn vị hành chánh cấp huyện. Ngay sau khi thành lập, Châu Đốc Đạo, Tân Châu Đạo và Đông Khẩu Đạo đặt dưới sự quản lý của dinh Long Hồ, đứng đầu là Nguyễn Cư Trinh. Dinh Long Hồ lập năm 1732 (còn gọi là Cái Bè dinh, vì đóng tại Cái Bè). Năm 1800 đổi thành Vĩnh Trấn. Năm 1808 đổi thành trấn Vĩnh Thanh. Đến năm 1836 chia thành hai tỉnh là Vĩnh Long và An Giang. Lúc này Tân Châu Đạo thuộc huyện Đông Xuyên và Đông Khẩu Đạo thuộc huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Để có phán ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nghi Biều hầu Nguyễn Cư Trinh cho dời trị sở của dinh Long Hồ từ An Bình Đông (Cái Bè) về xứ Tầm Bào (thuộc thôn Long Hồ, thị xã Vĩnh Long ngày nay), sát bờ sông Tiền, dòng rông rộng, chiến thuyền dễ dàng tiến thoái hơn ở sông Cái Bè. Từ đây, dinh Long Hồ có Đông Khẩu Đạo án ngữ làm tiền đồn thứ hai sau Tân Châu đạo bảo vệ. Vùng đất Đông Khẩu Đạo được lưu dân người Việt, người Hoa khai thác từ lâu, nay chính thức nội thuộc chủ quyền người Việt của Chúa Nguyễn (Đàng Trong). Sự kiện này là điều kiện vô cùng thuận lợi cho công cuộc khai mở cương vực của Tổ quốc về phương Nam, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở đồng bằng sông Cửu Long và cả Nam Bộ. Đây là vùng đất màu mỡ “sông sâu nước chảy”, nằm giữa sông Tiền, sông Hậu, chiếm vị trí trung tâm của Nam Bộ, là đầu cầu nối liền miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Từ đây người Việt, người Hoa chánh thức khai thác, làm ăn, mua bán… Chẳng bao lâu, trên địa bàn của đất Đông Khẩu Đạo thành lập được trên 60 thôn làng. Dân cư tập trung ngày một đông, nhiều tụ điểm cư dân hình thành ở hai bên bờ sông Tiền, sông Hậu: Cường Oai (Lai Vung), Cường Thành (Lấp Vò)… Sa Đéc hình thành từ lâu, trước khi Đông Khẩu Đạo ra đời, nay lại có điều kiện phát triển hơn với phố thị buôn bán tấp nập, trở thành một trung tâm thương mại lớn ở đồng bằng sông Cửu Long lúc bấy giờ. Bên cạnh đình, chùa, miếu mạo của người Việt là chùa Ông (Kiến An Cung, Thạnh Đức Cung, Nghê Thanh Cung), chùa Bà (Thiên Hậu) và các miếu vạn, miếu tổ nghề của người Hoa… Chính vì vậy mà vào đầu thế kỷ XVIII, Trịnh Hoài Đức đã mô tả chợ Sa Đéc: “… Phố chợ dọc theo hai bờ sông, nhà cửa hai bên móc nối chọi mái san sát như vãy cá liên tiếp kéo dài cả năm dặm, dưới sông có nhà làm trên bè tre, gác làm phòng ốc, đậu thành hàng dài sát nhau, buôn bán tơ lụa, trừu, đoạn, đồ dùng từ Nam Bắc chở đến, hoặc bán dầu rái, than, mây, tre, cá, khô, mắm… trên bờ dưới sông trăm thứ hàng hóa tốt đẹp. Thật là nơi phồn hoa tráng lệ, nhìn lóa mắt thỏa lòng”. Phát triển thạnh mậu của chợ Sa Đéc là bước ngoặt quan trọng trong tiến trình kinh tế - xã hội của Đông Khẩu Đạo và cả đồng bằng sông Cửu Long . Nó đánh dấu thành công bước đầu của công cuộc khai hoang, kích thích vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tây sông Hậu phát triển, nó còn là chợ đầu mối tập trung hàng hóa chuyển đi Mỹ Tho, Sài Gòn, Nam Vang… góp phần hình thành nền kinh tế hàng hóa ở khu vực. Để bảo vệ vùng đất mới tiếp thu, tại đây được xây dựng một đồn lớn giữa hai sông làm trung tâm kiêm quản luôn cả hai đạo thủ Chiến Sai (thuộc trấn Vĩnh Thanh, tức dinh Long Hồ trước đó) và Đạo thủ Hồng Ngự (thuộc trấn Định Tường. Do đồn Tân Châu vừa trú đóng nơi địa đầu hiểm yếu, vừa cai quản hai Đạo thủ khác nên Tân Châu không thuộc quyền cai quản của trấn địa phương là Vĩnh Thanh mà trực tiếp thuộc quyền điều động của Gia Định thành. Điều đó cho thất địa thế hiểm yếu của Tân Châu trong việc bảo vệ tuyến biên giới Tây Nam. Trên tuyến này, từ Tây Ninh đến Hà Tiên, Nguyễn Cư Trinh cho bố trí các đồn thủ biên phòng Quang Hóa (Tây Ninh, Tuyên Oai, Thông Bình, Hùng Ngự (Định Tường), làm bức tường bảo vệ biên giới phía Bắc Đồng Tháp Mười, nối liền với các đồn Tân Châu, Chiến Sai, Châu Đốc (An Giang). Để ngăn ngừa quân Xiêm đổ bộ ở vùng vịnh Xiêm La, ngoài trấn Hà Tiên, ông cùng Mạc Thiên Tứ quy hoạch và thành lập trên vùng đất Cà Mau-Rạch Giá ngày nay hai đạo Long Xuyên và An Giang. Ông còn quan tâm đến tình hình an ninh trật tự ảnh hưởng đến đời sống nhân dân trên vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long. Lúc bấy giờ bọn cướp thường lợi dụng những nơi quanh co doi, vịnh… trên sông rạch để làm nơi ẩn núp rồi bất thần xông ra đánh cướp các ghe thương hồ. Để ngăn chận tệ nạn này, ông quy định chánh quyền địa phương ở các trấn, các hạt lịnh cho các chủ ghe phải khắc tên họ quê quán mình trước mũi phương tiện và có sổ đăng ký với quan sở tại để tiện việc khám xét, kiểm tra. Từ đó nạn cướp giựt trên sông nước (còn gọi là Bối) ở đồng bằng sông Cửu Long giảm đi. Do có công lao to lớn, nên khi Định Vương Nguyễn Phước Thuần lên kế vị, Nguyễn Cư Trinh được triệu về Triều thăng làm Tào vận sứ ở Bộ Lại. Chúa Định Vương lúc bấy giờ mới 12 tuổi, mọi việc quốc quân trọng đại đều do tả ngoại Trương Phúc Loan nắm giữ, thao túng, có lúc ông này triệu các quan về tư dinh bàn việc. Nguyễn Cư Trinh liền lên tiếng phản đối: “Bàn việc gì tất phải ở chốn công đường, đó là định lệ, Phước Loan sau dám vô lễ như thế? Hắn muốn tiếm quyền ư? Thật hắn là kẻ làm loạn thiên hạ sau này”. Nghe ông nói vậy, các quan không ai dám đi. Loan trong bụng giận lắm,; nhưng biết ông là người ai cũng kính sợ, nên không dám làm hại. [5] Ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm chính trực. Ngoài công lao to lớn trong việc khai hoang mở cõi ở phương Nam với việc doanh điền, mở nước, an dân, ông còn là một nhà chánh trị tài ba với nhiều kế sách thiết thực, một nhà ngoại giao lỗi lạc đạt nhiều thành quả lớn, một nhà thơ. Ông thường xướng họa ngâm vịnh với Mạc Thiên Tứ và các danh sĩ khác trong nhóm Tao Đàn Chiêu anh các ở Hà Tiên, nổi tiếng với những bài thơ họa trong quyển “Hà Tiên thập cảnh vịnh”. Ông mất vào năm Đinh Hợi (1767), hưởng 51 tuổi, được truy tựng Tá lý công thần, Vĩnh lộc đại phu, thụy Văn Định. Đến thời Minh Mạng, ông lại được truy tặng Khai quốc công thần, Hiệp biện Đại học sĩ, đổi tên thụy, truy phong tước Tân Minh hầu là Văn Cách, cho tòng tự tại Thái Miếu. [6] Trong cuộc nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh (1777-1802), vị trí và vai trò của Đông Khẩu Đạo càng nổi rõ lên. Sau bao nhiêu lần thảm bại trước Tây Sơn, năm 1788 Nguyễn Ánh về căn cứ ở Tân Long, Long Hưng, kề cận Sa Đéc. Thế đất vùng Đông Khẩu Đạo đã góp phần giúp Nguyễn Ánh đánh bật Tây Sơn ra khỏi Nam Bộ, làm đà cho công cuộc phục thù của họ Nguyễn. Trong cuộc nội chiến này, vô hình trung biến vùng Đông Khẩu Đạo thành nơi tập trung một số môn đồ Nho học ở đồng bằng sông Cửu Long vốn là quan tướng của Nguyễn Ánh. Điều này tác động không nhỏ đến quá trình hình thành bản sắc văn hóa địa phương. Trong và sau nội chiến, vùng Đông Khẩu Đạo đón nhận thêm nhiều đợt lưu dân mới cùng với binh sĩ Tây Sơn tan rã tại chỗ nên không lạ gì khi thấy tốc độ và diện tích đất ở đây mở rộng nhanh hơn và nhiều hơn nơi khác. Trong cuộc đo đac địa chính năm 1836, cho thấy toàn Nam Kỳ có 5 thôn với diện tích trên 4.000 mẫu ruộng đất thực canh, thì vùng này chiếm hết hai thôn, trong đó thôn Tân Hựu (nay thuộc xã Tân Nhuận Đông) có diện tích lớn nhứt Nam Kỳ và một số thôn khác như Tân Long, Long Hậu, Tân Lộc, Vĩnh Phước… Hầu hết các thôn này đều nằm chung quanh thôn Long Hưng, nơi đóng căn cứ của Nguyễn Ánh trước đây. Điều kiện khách quan thuận lợi, đất lành chim đậu, đất tốt dân đông, biết thâm canh làm thủy lợi, với Mương Đào (tức Cái Bè cạn), rạch Cai Bường, rạch Cai Quản… nước chảy thông thương từ sông Tiền sang sông Hậu, Lấp Vò, Cái Dầu, Định Yên), Long Hậu lần hồi phát triển thành những tụ điểm dân cư quan trọng quanh Sa Đéc sát bờ sông Hậu. Ở mặt sông Tiền từ Cái Tàu Hạ trở xuống là khu dân cư trù mật, người Hoa cùng với người Việt làm ruộng rẫy, trao đổi mua bán... hình thành các tụ điểm Hội An, Tòng Sơn, Đất Sét, Cái Tàu Hạ... góp phần làm nên sự phồn thịnh của Đông Khẩu Đạo, làm cơ sở cho sự phát triển sau này của các huyện Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò và thị xã Sa Đéc của tỉnh Đồng Tháp. Ghi nhớ công lao mở cõi về phương Nam của Nghi Biểu hầu Nguyễn Cư Trinh, trong sách Đại Nam liệt truyện, viết về ông có đọan: “Cư Trinh là người có đủ tài thao lược, lại hay quyết đoán, kiến nghị việc gì đều là những câu trung thực, chính đáng, tới khi tham gia vào việc quan lữ, mở rộng đất đai phương Nam, giữ vững chốn biên thùy yên ổn thì công lao danh vọng thực là việc có một thời. Về phần thơ văn lại càng lão luyện như: “Đạm Am tập” là tập văn chương rất có giá trị, lưu truyền mãi đến ngày nay”. [7] Tiếp thu vùng đất Tầm Phong Long và sự ra đời của các Đạo: Châu Đốc, Tân Châu, Đông Khẩu, Kiên Giang và Long Xuyên là một trong những sự kiện đặc biệt trong lịch sử dân tộc. Nó vừa góp phần mở rộng cương vực của Tổ quốc ta về phương Nam, vừa đánh dấu kết thúc diễn trình Nam tiến của dân tộc ta trong 775 năm (982-1757); kể từ khi Vua Lê Đại Hành mang quân trừng phạt Chiêm Thành vào năm 982 về việc nước này bắt giam sứ ta và âm mưu liên minh quân sự với nhà Tống để xâm lược nước tra. Suốt 250 năm qua (1757-2007), các thế hệ tiền nhân đã tốn biết bao nhiêu công sức, máu xương để xây dựng, thành lập và bảo vệ vùng đất này, chuyển lại cho chúng ta hôm nay. Kỷ niệm 250 năm ngày ra đời của sự kiện lịch sử quan trọng này không chỉ bày tỏ lòng tri ơn đối với tiền nhân mà thế hệ hôm nay cũng như các thế hệ mai sau nguyện ra sức bảo vệ và xây dựng vùng đất này ngày càng phồn vinh để khỏi phụ lòng tổ tiên vậy. --- Chú thích: [1] Là một tập thơ Nôm, gồm 340 câu đôi ghi lại sự đối đáp giữa Sải và Vải nhằm động viên tinh thần binh sĩ trong việc dẹp giặc, trừ hại cho dân. Qua đó ông đề cao, chấn chỉnh Nho giáo và phê phán bọn tu hành giả hiệu. [2] Năm dinh ấy là: Bình Khang (Khánh Hòa); Bình Thuận, Trấn Biên (Biên Hòa, Bà Rịa); Phiên Trấn(Gia Định); Long Hồ (Mỹ Tho, Vĩnh Long). [3] Quốc sử quan: Đại Nam liệt truyện, tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế 1997, tr.161,162 [4] Trịnh Hoài Đức- Gia Định thành thông chí, tập Trung, tr.16. [5] Nguyễn Cư Trinh: Sải Vải, Sđd, tr.51-52. [6] Nguyễn Quyết Thắng – Nguyến Bá Thế: Từ điển nhân vật Lịch sử Việt Nam. [7] Quốc sử quan: Đại Nam liệt truyện, tập 1, tr.153.

Châu Đốc Năm Xưa

ĐỖ THỦ KHOA

CHÂU ĐỐC QUA CÁC THỜI ĐẠI:

Châu Đốc nằm trong dãy đất Tầm Phong Long của Thủy Chân Lạp (Cao Miên sau này) bao gồm: vùng Thất Sơn, vùng đồng bằng Châu Đốc, Long Xuyên, một phần của Sa Đéc, Cao Lãnh và Cần Thơ. Nơi đây là phần đất sinh cơ lập nghiệp của dân Việt, Miên, Lào, Tàu và Chà (theo bia Vĩnh Tế Sơn).
Đến năm 1757, Phiên Vương Chân Lạp tiến dâng đất này cho Chúa Nguyễn Phúc Khoát để tạ ơn che chở đặt lên ngôi báu (do tài ngoại giao và bảo cử của quan Tổng Binh Mạc Thiên Tứ trấn Hà Tiên). Được đất mới, Chúa Võ Vương sai Thống Suất Trương Phúc An và Tham Mưu Nguyễn Cư Trinh (theo kế sách Tầm Thực của Cư Trinh) đặt 3 đạo:

  • Tân Châu đạo ở Tiền Giang.
  • Châu Đốc đạo (đóng quân tại bến An Giang sau này, tức Châu Đốc hiện nay. Phụ lục với đạo Châu Đốc có quân binh của dinh Long Hồ sai phái và các bảo Châu Phú, Châu Giang... Cùng liên lạc với đồn binh tại Tịnh Biên để phòng ngự vùng Thất Sơn và 2 sông Tiền, Hậu).
  • Đông Khẩu đạo ở Sa Đéc. Đồng thời, quan Tổng Binh Mạc Thiên Tứ xin Chúa Nguyễn cho lập 2 đạo của Hà Tiên là:
  • Kiên Giang đạo ở Rạch Giá.
  • Long Xuyên đạo ở Cà Mau (đến giữa triều Minh Mạng đạo này trở thành huyện Long Xuyên tại Cà Mau).

Đạo là khu vực quân sự và hành chánh của 1 vùng, có đồn trại để cai trị 1 vùng.
Đến năm Kỷ Hợi (1779) Chúa Nguyễn cho dời dinh Long Hồ về chợ Vĩnh Long ngày nay và đặt quan cai quản đất mới Tầm Phong Long.
Triều Gia Long 1805, đất Tầm Phong Long thống thuộc Vĩnh Trấn. Đến năm 1808, đổi tên là trấn Vĩnh Thanh (quan Đô Thống Thoại Ngọc Hầu là một trong những vị trấn thủ từ năm 1817 - Đinh Sửu, Gia Long thứ 16).
Năm Gia Long thứ 15, Bính Tý (1816) Vua giáng dụ đấp đồn Châu Đốc (do Trấn Thủ Lưu Phước Tường chỉ huy) theo mô hình lục giác có hào sâu thành cao bằng đá ong, vôi cát, mặt tiền hướng về bờ sông Châu Đốc (vị trí đồn và tỉnh thần An Giang sau này là thành lính tập (CB) đời Pháp thuộc, sau này là trại Thoại Ngọc Hầu, thuộc tiểu khu Châu Đốc). Tỉnh lỵ An Giang và các lỵ sở hành chánh trực thuộc từ thành lính tập chạy dài lên tiệm rượu Vĩnh Phong Long sau này.
Năm Gia Long thứ 18 Kỷ Mão (1819) Vua giáng dụ đào kinh từ phía Tây đồn Châu Đốc đến Giang Thành Hà Tiên, hoàn tất trong 5 năm. Họa đồ dâng lên, Vua Minh Mạng vui mừng, ban tên đất là “Châu Đốc Tân Cương” đồng thời mang tên kinh là Vĩnh Tế Hà, được chạm khắc vào Cao Đĩnh trước nhà Thế Miếu ở cố đô Huế (chỉ huy đào kinh do Đô Thống Thoại Ngọc Hầu; phụ lực có Thống Chế Nguyễn Văn Tuyên và Diều Bát Nguyễn Văn Tồn. Nhưng công tiếp tế lương thảo, nước uống và dụng cụ đào kinh lại do bà Châu Thị Vĩnh Tế, chánh thất phu nhơn của quan Đô Thống Thoại Ngọc Hầu. Nên Vua lấy tên bà đặt tên kinh và đổi núi Sam thành Vĩnh Tế Sơn. Đồng thời ban vị hiệu cho bà là Nhàn Tĩnh phu nhơn.
Triều Minh Mạng 1832, sau khi Đức Tổng Trấn Quận Công Lê Tả Quân qui thần, Vua ra lệnh dẹp thành Gia Định, các Trấn đổi thành Tỉnh, trực thuộc triều đình.
Đến 1833, dâng chỉ dụ triệt hạ phía Dông đồn Châu Đốc để xây cất tỉnh thành và các cơ sở hành chánh quân sự của tỉnh An Giang. Tỉnh này lúc mới lập chỉ có 2 phủ và 4 huyện.

  • Phủ Tuy Biên có 2 huyện: Tây Xuyên (vùng Châu Đốc) và Phong Phú.
  • Phủ Tân Thành có 2 huyện: Đông Xuyên (vùng Long Xuyên) và huyện Vĩnh An (Sa Đéc).

Ông Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn là những vị Tổng Đốc An Hà triều Thiệu Trị.
Đến đời Thiệu Trị và Tự Đức, tỉnh An Giang được thêm những phần đất của Hà Tiên (gần vùng Bảy Núi Châu Đốc) và những phần đất Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu sau này.
Trái 2 triều Vua này, An Giang có 3 phủ và 10 huyện chạy dài từ biên giới Việt Miên (vùng Châu Đốc - Cao Lãnh) đến tận bờ biển Nam Hải. So với 3 tỉnh Miền Tây, An Giang là đất lớn nhất, kế đến Hà Tiên và nhỏ nhất là Vĩnh Long. Tuy nhiên, Vĩnh Long là vùng đất thuộc, toàn thể đất đai đều được khai thác, ruộng vườn rất là thạnh mậu (tiếng xưa còn lưu lại Vĩnh Long là miệt vườn).
Sau khi 3 tỉnh miền Đông bị mất, quan Kinh Lược Đại Thần Phan Thanh Giản phụng chỉ triều đình cố thủ 3 tỉnh miền Tây, nên Người dựng tại Vĩnh Long một Văn Thánh Miếu và tại tỉnh thành An Giang (nên nhớ là Châu Đốc sau này) một trường thi hương để thắp sáng nền văn minh, văn hóa Khổng Mạnh và đáp ứng việc học hành khoa cử của con dân 3 tỉnh còn lại.
Đến năm 1867 (ngày 20 tháng 5 Đinh Mão. Năm Tự Đức thứ 20) quân Pháp tiến chiếm tỉnh thành An Giang do Trung Tá Galey cầm quân và 5 ngày sau đó, tỉnh thành Hà Tiên cũng cùng chung số phận.
Sau khi chiếm trọn tỉnh An Giang, chính quyền thuộc địa đã chia năm xẻ bảy tỉnh này ra làm nhiều tỉnh nhỏ gồm: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, do sắc lệnh 143/VN ngày 22/10/1956: 2 tỉnh đời Tây thuộc Châu Đốc, Long Xuyên bị nhập lại gọi An Giang, nhưng tỉnh lỵ đặt tại Long Xuyên (nơi nhau rún của đương triều Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ). Thời này nghe nhiều vị cố lão ở Châu Đốc kể lại và đánh dấu hỏi thật lớn: Tại sao chánh phủ Cộng Hòa không đặt tỉnh lỵ tại Châu Đốc, vì nơi đây là vùng đất xưa, rất là cao ráo, không bị ngập lụt. Xưa, vua quan nhà Nguyễn rất là sáng suốt đặt chánh quyền cấp Tỉnh tại đây để phòng ngự vùng biên giới ngăn ngừa quân xâm lược Miên, Xiêm. Hơn nữa Châu Đốc là đất văn học, vì xưa có trường thi Hương, lại tích tụ văn minh, văn hóa Việt Nam, Miên, Lào, Chà và di dân Trung Hoa, lại trù phú thạnh mậu về nông lâm thủy sản, gia cầm gia súc cùng nền kinh tế xuất nhập cảng nữa.
Sự xáp nhập này đưa công nho 50 xã của vùng Châu Đốc về phát triển cho Long Xuyên cho đến 9 năm sau. Năm 1964 Châu Đốc được trả lại thành tỉnh (thời Đệ Nhị Cộng Hòa).

NHỮNG TỪ MIẾU & DI TÍCH CÒN LƯU LẠI TẠI CHÂU ĐỐC

  • Đền Thờ Lễ Công (tức Đình Thần Châu Phú hiện nay).Xưa do quan Trấn Thủ Thoại Ngọc Hầu tạo lập để thờ phụng Đức Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, vị đại khai quốc công thần đời Chúa Nguyễn Phúc Chu đã có kỳ công bình Chiêm Thành (vùng Bình Thuận, Khánh Hòa 1613), đặt nền hành chánh đầu tiên tại Nam phần (Biên Hòa, Gia Định năm 1698 ). Sau cùng kéo quân binh lên tận đất Miên để dẹp giặc và phủ dụ dân Miên 1699-1700. Ông mất năm 1700, di hài được chôn cất tại cù lao Phố (Biên Hòa). Ông là vị công thần được nhiều nơi thờ nhất. Điển hình tùng tự tại nhà Thái Miếu Cố Đô Huế, lăng mộ tại Biên Hòa, đình Minh Hương Gia Thạnh Chợ Lớn, Rạch Gầm Mỹ Tho (nơi ông mất), vùng Cù Lao Ông Chưởng và Châu Thành Long Xuyên, chợ Châu Đốc và các xã lân cận. Xưa, ông có ân và uy với dân Miên nên trên dầu Cồn trước chợ Nam Vang còn đền thờ để tưởng nhớ ông. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ. Mục Từ Miếu).

  • Miếu Thành Hoàng (Miếu Ông Hàn ngang trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa Châu Đốc). Miễu tạo lập năm Thiệu Trị, có lúc dời lên phía Tây tỉnh thành thuộc thôn Vĩnh Ngươn. Sau triều Tự Đức, dời lại chỗ cũ phía Đông tỉnh thành thờ Đương Cảnh Bổn Thổ Thành Hoàng (vị thần bảo hộ cho tỉnh thành An Giang xưa). (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu).

  • Chùa Tây An: Trúc tạo năm 1847 do quan Tổng Đốc An Hà Trấn Tây Mưu Lược Tướng tước hiệu Tuy Tĩnh Bá Doãn Uẩn (gốc người Bắc) Trùng kiến Tây An. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu).
  • Miếu Âm Nhơn Cô Hồn (đối diện Miếu Thành Hoàng) Xưa để thờ tự “Hớn Thanh Minh Thổ Vô Tự Oan Hồn” đã tử trận hoặc tử nạn. Nay bị dẹp để làm trụ sở Hội Hồng Thập Tự và chùa Viên Quang. Nhưng còn lưu lại Cây Sộp cành lá xum xuê, ba bốn người ôm không giáp để lưu di tích miếu xưa.
  • Chùa Sắc Tứ Châu Long: Do bà Châu Thị Vĩnh Tế tạo lập để phụng thờ những anh hồn Châu Đốc bình tặc tướng sĩ trận vong và vô tự oan hồn tử nạn trong công tác đào kinh Vĩnh Tế. Chùa này tọa lạc trong vòng rào dinh Tỉnh Trưởng Châu Đốc. Đời Tây dời về ấp Châu Long như hiện nay. Trong chùa còn lưu giữ bản sắc do vua Tự Đức ban cấp.
  • Công sở xã Châu Phú: Trước kia nằm tại đình Châu Phú hiện giờ. Vì đình Châu Phú di chuyển từ bên hông nhà trường về địa điểm hiện nay, do đó công sở mới dời về phía trong Đài Chiến Sĩ. Lúc trước còn có tên là Nhà Vuông, được xây cất nguy nga, đồ sộ. 2 tầng nửa Âu, nửa Á. Đã bị hủy đi sau Tết Mậu Thân.
  • Bồ Đề Đạo Tràng: Nơi có bảo tháp thờ Phật và cây bồ đề con của cây bồ đề Bảo Thọ nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo tại Ấn Độ. Công đức tạo lập này là ông Đốc Học Phạm Ngọc Đa và cố Tỉnh Trưởng Đặng Văn Lý. (Vị trước xin cây bồ đề từ chính phủ Ấn Độ. Vị sau thuận cho lập tại trung tâm chợ Châu Đốc từ năm 1952, nơi đây là địa điểm hành hương của Phật Tử toàn quốc khi đến Châu Đốc hành hương).
  • Lăng Mộ Thoại Ngọc Hầu: Vị thượng quan 2 triều Gia Long, Minh Mạng, có lúc làm trấn thủ Vĩnh Thanh, có lúc làm bảo hộ Cao Miên; án thủ đồn Châu Đốc và quản trấn Hà Tiên. Xưa, từng tùng vong theo Chúa Nguyễn Ánh qua Xiêm, đồng thời làm nhà ngoại giao với các nước Xiêm, Lào, Miên để giúp Chúa Nguyễn thống nhất đất nước. Có công đào kinh Thoại Hà (Long Xuyên - Rạch Giá), kinh Vĩnh Tế (Châu Đốc - Hà Tiên), mở mang vùng Cù Lao Dài (Vĩnh Long), vùng núi Sập (Long Xuyên), vùng Châu Đốc và các xã hai bên kinh Vĩnh Tế. Lăng Mộ rất nguy nga tráng lệ, được tô đắp nét chân nét thảo. Nhờ trong vùng an ninh nên khu lăng lộ của ông và hai bà cùng thân quyến, tùy tùng... hơn 100 ngôi mộ được lưu giữ tốt đẹp cho đến ngày hôm nay.
  • Miếu Bà Chúa Xứ: Nơi thờ vị thánh mẫu, hàng năm làm lễ cúng rất long trọng từ 23 đến 27 tháng 4 âm lịch.

VÀI LỜI MINH XÁC:
Vì những bài sưu khảo trước đây có lắm điều sai lạc với tỉnh nhà, chúng tôi xin xác nhận và tuần tự liệt kê dưới đây:

  • Tỉnh thành An Giang xưa được kiến tạo tại Châu Đốc, nay còn di tích được Bộ Văn Hóa Giáo Dục dưới thời đệ nhất, đệ nhị Cộng Hòa công nhận. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Tỉnh An Giang - Mục Cổ Tích).
  • Đức Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, trước khi kéo quân lên bình định đất Miên, ông là quan Trấn Thủ trấn Bình Khương, do đó Tổng Hành Dinh của ông đặt tại Bình Khương. Vùng Cù Lao Ông Chưởng chỉ là nơi ông trú quân một thời gian ngắn (vì ông và toàn thể quân binh đều bị bịnh dịch). Sau mấy ngày di chuyển về Rạch Gầm (Định Tường) thì ông mất. (Theo Thực Lục Tiên Biên).
  • Chùa Tây An Châu Đốc: Hành trì theo phái Lâm Tế từ lâu. Đến năm 1847, ông Tổng Đốc Doãn Uẩn tạo dựng lại. Còn Phật Thầy chỉ trú ngụ và nương náu một thời gian ngắn rồi thị tịch. Xác chôn cạnh chùa (do đó Phật Thầy không là người lập chùa Tây An). (Theo Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu và Thất Sơn Mầu Nhiệm của Nguyễn Văn Hầu.
  • Châu Đốc mất tỉnh trong 9 năm thời Đệ I Cộng Hòa, có nghĩa là đầu não của tòa Hành Chánh mất, nhưng địa danh vẫn còn, vả lại Châu Đốc là chữ nho phiên âm ra, chính vì thế, hồi Đệ I Cộng Hòa không có sửa Châu Đốc đổi lại thành Châu Phú (Xin nhớ Châu Phú là tên quận Châu Thành của Châu Đốc mà thôi). Đầu đời Đệ II Cộng Hòa 1964, chính phủ đồng loạt trả lại các tỉnh đã bị sáp nhập toàn quốc, không riêng vì tỉnh Châu Đốc, cho nên có người nói nhân sĩ Châu Đốc thỉnh cầu tái lập tỉnh vào năm 1964 là sai.

Mặc dù mất tỉnh trong 9 năm, Châu Đốc vẫn còn giữ 1 ty Bưu Điện, ty Trung Gian Ngân Khố (tuy nhiên ty này quản trị số tiền còn nhiều hơn ở tỉnh An Giang thời đó), 1 chợ phiên trâu bò (hàng tháng hoặc 110 ngày họp mua bán 1 lần), 2 ty Chánh Thu Quan Thuế (1 tại Châu Đốc, 1 tại Tân Châu). Trong khi tại tỉnh An Giang chỉ có 1 ty phụ thu quan thuế mà thôi. Nói về thủy sản, Châu Đốc là trên nguồn so với các tỉnh phía dưới, do đó thu hoạch thủy sản phải nhiều hơn. Riêng gia cầm gia súc như bò, trâu, heo, gà, vịt... nhờ nước bạn tiếp sức nên hàng ngày biết bao nhiêu xe hàng chuyên chở xuất tỉnh (lúc đó Châu Đốc được trung ương cấp giấy ban khen là 1 địa phương cung cấp thực phẩm cho Sài Gòn nhiều nhất).

Ngoài ra những dược liệu ở Châu Đốc phải kể là nhiều nhất, xuất phát từ Bảy Núi trùng điệp và ngọn núi Tà Lơn của Cao Miên cung cấp.
Ngoài ra còn biết bao sai sót khác, nhưng chúng tôi để công luận suy xét.

Tài liệu tham khảo:

  • Đại Nam Nhất Thống Chí do Tu Trai Nguyễn Tạo dịch.
  • Thoại Ngọc Hầu khai phá miền Hậu Giang và Thất Sơn mầu nhiệm do Giáo Sư Nguyễn Văn Hầu (Tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo).
  • Lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn Nam.
  • Đất Việt, Trời Nam của Thái Văn Kiểm.
  • Tài liệu Việt Tấn Xã (Người Việt, Đất Việt của Toan Ánh).

  • Tiểu sử Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh tại Đình Thần Châu Phú Châu Đốc.

  • Việt Nam Phật Giáo Sử của Thượng Tọa Mật Thể.

  • Lời thuật của các vị nhân sĩ trong ban Bảo Tồn Cổ Tích của tỉnh Châu Đốc (Ông Thông Phán Đặng Văn Giáp)

## Châu Đốc Năm Xưa #### ĐỖ THỦ KHOA **CHÂU ĐỐC QUA CÁC THỜI ĐẠI:** Châu Đốc nằm trong dãy đất Tầm Phong Long của Thủy Chân Lạp (Cao Miên sau này) bao gồm: vùng Thất Sơn, vùng đồng bằng Châu Đốc, Long Xuyên, một phần của Sa Đéc, Cao Lãnh và Cần Thơ. Nơi đây là phần đất sinh cơ lập nghiệp của dân Việt, Miên, Lào, Tàu và Chà (theo bia Vĩnh Tế Sơn). Đến năm 1757, Phiên Vương Chân Lạp tiến dâng đất này cho Chúa Nguyễn Phúc Khoát để tạ ơn che chở đặt lên ngôi báu (do tài ngoại giao và bảo cử của quan Tổng Binh Mạc Thiên Tứ trấn Hà Tiên). Được đất mới, Chúa Võ Vương sai Thống Suất Trương Phúc An và Tham Mưu Nguyễn Cư Trinh (theo kế sách Tầm Thực của Cư Trinh) đặt 3 đạo: - Tân Châu đạo ở Tiền Giang. - Châu Đốc đạo (đóng quân tại bến An Giang sau này, tức Châu Đốc hiện nay. Phụ lục với đạo Châu Đốc có quân binh của dinh Long Hồ sai phái và các bảo Châu Phú, Châu Giang... Cùng liên lạc với đồn binh tại Tịnh Biên để phòng ngự vùng Thất Sơn và 2 sông Tiền, Hậu). - Đông Khẩu đạo ở Sa Đéc. Đồng thời, quan Tổng Binh Mạc Thiên Tứ xin Chúa Nguyễn cho lập 2 đạo của Hà Tiên là: - Kiên Giang đạo ở Rạch Giá. - Long Xuyên đạo ở Cà Mau (đến giữa triều Minh Mạng đạo này trở thành huyện Long Xuyên tại Cà Mau). Đạo là khu vực quân sự và hành chánh của 1 vùng, có đồn trại để cai trị 1 vùng. Đến năm Kỷ Hợi (1779) Chúa Nguyễn cho dời dinh Long Hồ về chợ Vĩnh Long ngày nay và đặt quan cai quản đất mới Tầm Phong Long. Triều Gia Long 1805, đất Tầm Phong Long thống thuộc Vĩnh Trấn. Đến năm 1808, đổi tên là trấn Vĩnh Thanh (quan Đô Thống Thoại Ngọc Hầu là một trong những vị trấn thủ từ năm 1817 - Đinh Sửu, Gia Long thứ 16). Năm Gia Long thứ 15, Bính Tý (1816) Vua giáng dụ đấp đồn Châu Đốc (do Trấn Thủ Lưu Phước Tường chỉ huy) theo mô hình lục giác có hào sâu thành cao bằng đá ong, vôi cát, mặt tiền hướng về bờ sông Châu Đốc (vị trí đồn và tỉnh thần An Giang sau này là thành lính tập (CB) đời Pháp thuộc, sau này là trại Thoại Ngọc Hầu, thuộc tiểu khu Châu Đốc). Tỉnh lỵ An Giang và các lỵ sở hành chánh trực thuộc từ thành lính tập chạy dài lên tiệm rượu Vĩnh Phong Long sau này. Năm Gia Long thứ 18 Kỷ Mão (1819) Vua giáng dụ đào kinh từ phía Tây đồn Châu Đốc đến Giang Thành Hà Tiên, hoàn tất trong 5 năm. Họa đồ dâng lên, Vua Minh Mạng vui mừng, ban tên đất là “Châu Đốc Tân Cương” đồng thời mang tên kinh là Vĩnh Tế Hà, được chạm khắc vào Cao Đĩnh trước nhà Thế Miếu ở cố đô Huế (chỉ huy đào kinh do Đô Thống Thoại Ngọc Hầu; phụ lực có Thống Chế Nguyễn Văn Tuyên và Diều Bát Nguyễn Văn Tồn. Nhưng công tiếp tế lương thảo, nước uống và dụng cụ đào kinh lại do bà Châu Thị Vĩnh Tế, chánh thất phu nhơn của quan Đô Thống Thoại Ngọc Hầu. Nên Vua lấy tên bà đặt tên kinh và đổi núi Sam thành Vĩnh Tế Sơn. Đồng thời ban vị hiệu cho bà là Nhàn Tĩnh phu nhơn. Triều Minh Mạng 1832, sau khi Đức Tổng Trấn Quận Công Lê Tả Quân qui thần, Vua ra lệnh dẹp thành Gia Định, các Trấn đổi thành Tỉnh, trực thuộc triều đình. Đến 1833, dâng chỉ dụ triệt hạ phía Dông đồn Châu Đốc để xây cất tỉnh thành và các cơ sở hành chánh quân sự của tỉnh An Giang. Tỉnh này lúc mới lập chỉ có 2 phủ và 4 huyện. - Phủ Tuy Biên có 2 huyện: Tây Xuyên (vùng Châu Đốc) và Phong Phú. - Phủ Tân Thành có 2 huyện: Đông Xuyên (vùng Long Xuyên) và huyện Vĩnh An (Sa Đéc). Ông Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn là những vị Tổng Đốc An Hà triều Thiệu Trị. Đến đời Thiệu Trị và Tự Đức, tỉnh An Giang được thêm những phần đất của Hà Tiên (gần vùng Bảy Núi Châu Đốc) và những phần đất Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu sau này. Trái 2 triều Vua này, An Giang có 3 phủ và 10 huyện chạy dài từ biên giới Việt Miên (vùng Châu Đốc - Cao Lãnh) đến tận bờ biển Nam Hải. So với 3 tỉnh Miền Tây, An Giang là đất lớn nhất, kế đến Hà Tiên và nhỏ nhất là Vĩnh Long. Tuy nhiên, Vĩnh Long là vùng đất thuộc, toàn thể đất đai đều được khai thác, ruộng vườn rất là thạnh mậu (tiếng xưa còn lưu lại Vĩnh Long là miệt vườn). Sau khi 3 tỉnh miền Đông bị mất, quan Kinh Lược Đại Thần Phan Thanh Giản phụng chỉ triều đình cố thủ 3 tỉnh miền Tây, nên Người dựng tại Vĩnh Long một Văn Thánh Miếu và tại tỉnh thành An Giang (nên nhớ là Châu Đốc sau này) một trường thi hương để thắp sáng nền văn minh, văn hóa Khổng Mạnh và đáp ứng việc học hành khoa cử của con dân 3 tỉnh còn lại. Đến năm 1867 (ngày 20 tháng 5 Đinh Mão. Năm Tự Đức thứ 20) quân Pháp tiến chiếm tỉnh thành An Giang do Trung Tá Galey cầm quân và 5 ngày sau đó, tỉnh thành Hà Tiên cũng cùng chung số phận. Sau khi chiếm trọn tỉnh An Giang, chính quyền thuộc địa đã chia năm xẻ bảy tỉnh này ra làm nhiều tỉnh nhỏ gồm: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu. Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, do sắc lệnh 143/VN ngày 22/10/1956: 2 tỉnh đời Tây thuộc Châu Đốc, Long Xuyên bị nhập lại gọi An Giang, nhưng tỉnh lỵ đặt tại Long Xuyên (nơi nhau rún của đương triều Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ). Thời này nghe nhiều vị cố lão ở Châu Đốc kể lại và đánh dấu hỏi thật lớn: Tại sao chánh phủ Cộng Hòa không đặt tỉnh lỵ tại Châu Đốc, vì nơi đây là vùng đất xưa, rất là cao ráo, không bị ngập lụt. Xưa, vua quan nhà Nguyễn rất là sáng suốt đặt chánh quyền cấp Tỉnh tại đây để phòng ngự vùng biên giới ngăn ngừa quân xâm lược Miên, Xiêm. Hơn nữa Châu Đốc là đất văn học, vì xưa có trường thi Hương, lại tích tụ văn minh, văn hóa Việt Nam, Miên, Lào, Chà và di dân Trung Hoa, lại trù phú thạnh mậu về nông lâm thủy sản, gia cầm gia súc cùng nền kinh tế xuất nhập cảng nữa. Sự xáp nhập này đưa công nho 50 xã của vùng Châu Đốc về phát triển cho Long Xuyên cho đến 9 năm sau. Năm 1964 Châu Đốc được trả lại thành tỉnh (thời Đệ Nhị Cộng Hòa). ** NHỮNG TỪ MIẾU & DI TÍCH CÒN LƯU LẠI TẠI CHÂU ĐỐC** - Đền Thờ Lễ Công (tức Đình Thần Châu Phú hiện nay).Xưa do quan Trấn Thủ Thoại Ngọc Hầu tạo lập để thờ phụng Đức Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, vị đại khai quốc công thần đời Chúa Nguyễn Phúc Chu đã có kỳ công bình Chiêm Thành (vùng Bình Thuận, Khánh Hòa 1613), đặt nền hành chánh đầu tiên tại Nam phần (Biên Hòa, Gia Định năm 1698 ). Sau cùng kéo quân binh lên tận đất Miên để dẹp giặc và phủ dụ dân Miên 1699-1700. Ông mất năm 1700, di hài được chôn cất tại cù lao Phố (Biên Hòa). Ông là vị công thần được nhiều nơi thờ nhất. Điển hình tùng tự tại nhà Thái Miếu Cố Đô Huế, lăng mộ tại Biên Hòa, đình Minh Hương Gia Thạnh Chợ Lớn, Rạch Gầm Mỹ Tho (nơi ông mất), vùng Cù Lao Ông Chưởng và Châu Thành Long Xuyên, chợ Châu Đốc và các xã lân cận. Xưa, ông có ân và uy với dân Miên nên trên dầu Cồn trước chợ Nam Vang còn đền thờ để tưởng nhớ ông. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ. Mục Từ Miếu). - Miếu Thành Hoàng (Miếu Ông Hàn ngang trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa Châu Đốc). Miễu tạo lập năm Thiệu Trị, có lúc dời lên phía Tây tỉnh thành thuộc thôn Vĩnh Ngươn. Sau triều Tự Đức, dời lại chỗ cũ phía Đông tỉnh thành thờ Đương Cảnh Bổn Thổ Thành Hoàng (vị thần bảo hộ cho tỉnh thành An Giang xưa). (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu). - Chùa Tây An: Trúc tạo năm 1847 do quan Tổng Đốc An Hà Trấn Tây Mưu Lược Tướng tước hiệu Tuy Tĩnh Bá Doãn Uẩn (gốc người Bắc) Trùng kiến Tây An. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu). - Miếu Âm Nhơn Cô Hồn (đối diện Miếu Thành Hoàng) Xưa để thờ tự “Hớn Thanh Minh Thổ Vô Tự Oan Hồn” đã tử trận hoặc tử nạn. Nay bị dẹp để làm trụ sở Hội Hồng Thập Tự và chùa Viên Quang. Nhưng còn lưu lại Cây Sộp cành lá xum xuê, ba bốn người ôm không giáp để lưu di tích miếu xưa. - Chùa Sắc Tứ Châu Long: Do bà Châu Thị Vĩnh Tế tạo lập để phụng thờ những anh hồn Châu Đốc bình tặc tướng sĩ trận vong và vô tự oan hồn tử nạn trong công tác đào kinh Vĩnh Tế. Chùa này tọa lạc trong vòng rào dinh Tỉnh Trưởng Châu Đốc. Đời Tây dời về ấp Châu Long như hiện nay. Trong chùa còn lưu giữ bản sắc do vua Tự Đức ban cấp. - Công sở xã Châu Phú: Trước kia nằm tại đình Châu Phú hiện giờ. Vì đình Châu Phú di chuyển từ bên hông nhà trường về địa điểm hiện nay, do đó công sở mới dời về phía trong Đài Chiến Sĩ. Lúc trước còn có tên là Nhà Vuông, được xây cất nguy nga, đồ sộ. 2 tầng nửa Âu, nửa Á. Đã bị hủy đi sau Tết Mậu Thân. - Bồ Đề Đạo Tràng: Nơi có bảo tháp thờ Phật và cây bồ đề con của cây bồ đề Bảo Thọ nơi Đức Phật Thích Ca thành đạo tại Ấn Độ. Công đức tạo lập này là ông Đốc Học Phạm Ngọc Đa và cố Tỉnh Trưởng Đặng Văn Lý. (Vị trước xin cây bồ đề từ chính phủ Ấn Độ. Vị sau thuận cho lập tại trung tâm chợ Châu Đốc từ năm 1952, nơi đây là địa điểm hành hương của Phật Tử toàn quốc khi đến Châu Đốc hành hương). - Lăng Mộ Thoại Ngọc Hầu: Vị thượng quan 2 triều Gia Long, Minh Mạng, có lúc làm trấn thủ Vĩnh Thanh, có lúc làm bảo hộ Cao Miên; án thủ đồn Châu Đốc và quản trấn Hà Tiên. Xưa, từng tùng vong theo Chúa Nguyễn Ánh qua Xiêm, đồng thời làm nhà ngoại giao với các nước Xiêm, Lào, Miên để giúp Chúa Nguyễn thống nhất đất nước. Có công đào kinh Thoại Hà (Long Xuyên - Rạch Giá), kinh Vĩnh Tế (Châu Đốc - Hà Tiên), mở mang vùng Cù Lao Dài (Vĩnh Long), vùng núi Sập (Long Xuyên), vùng Châu Đốc và các xã hai bên kinh Vĩnh Tế. Lăng Mộ rất nguy nga tráng lệ, được tô đắp nét chân nét thảo. Nhờ trong vùng an ninh nên khu lăng lộ của ông và hai bà cùng thân quyến, tùy tùng... hơn 100 ngôi mộ được lưu giữ tốt đẹp cho đến ngày hôm nay. - Miếu Bà Chúa Xứ: Nơi thờ vị thánh mẫu, hàng năm làm lễ cúng rất long trọng từ 23 đến 27 tháng 4 âm lịch. ** VÀI LỜI MINH XÁC:** Vì những bài sưu khảo trước đây có lắm điều sai lạc với tỉnh nhà, chúng tôi xin xác nhận và tuần tự liệt kê dưới đây: - Tỉnh thành An Giang xưa được kiến tạo tại Châu Đốc, nay còn di tích được Bộ Văn Hóa Giáo Dục dưới thời đệ nhất, đệ nhị Cộng Hòa công nhận. (Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Tỉnh An Giang - Mục Cổ Tích). - Đức Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, trước khi kéo quân lên bình định đất Miên, ông là quan Trấn Thủ trấn Bình Khương, do đó Tổng Hành Dinh của ông đặt tại Bình Khương. Vùng Cù Lao Ông Chưởng chỉ là nơi ông trú quân một thời gian ngắn (vì ông và toàn thể quân binh đều bị bịnh dịch). Sau mấy ngày di chuyển về Rạch Gầm (Định Tường) thì ông mất. (Theo Thực Lục Tiên Biên). - Chùa Tây An Châu Đốc: Hành trì theo phái Lâm Tế từ lâu. Đến năm 1847, ông Tổng Đốc Doãn Uẩn tạo dựng lại. Còn Phật Thầy chỉ trú ngụ và nương náu một thời gian ngắn rồi thị tịch. Xác chôn cạnh chùa (do đó Phật Thầy không là người lập chùa Tây An). (Theo Đại Nam Nhất Thống Chí - Quyển Hạ - Mục Từ Miếu và Thất Sơn Mầu Nhiệm của Nguyễn Văn Hầu. - Châu Đốc mất tỉnh trong 9 năm thời Đệ I Cộng Hòa, có nghĩa là đầu não của tòa Hành Chánh mất, nhưng địa danh vẫn còn, vả lại Châu Đốc là chữ nho phiên âm ra, chính vì thế, hồi Đệ I Cộng Hòa không có sửa Châu Đốc đổi lại thành Châu Phú (Xin nhớ Châu Phú là tên quận Châu Thành của Châu Đốc mà thôi). Đầu đời Đệ II Cộng Hòa 1964, chính phủ đồng loạt trả lại các tỉnh đã bị sáp nhập toàn quốc, không riêng vì tỉnh Châu Đốc, cho nên có người nói nhân sĩ Châu Đốc thỉnh cầu tái lập tỉnh vào năm 1964 là sai. Mặc dù mất tỉnh trong 9 năm, Châu Đốc vẫn còn giữ 1 ty Bưu Điện, ty Trung Gian Ngân Khố (tuy nhiên ty này quản trị số tiền còn nhiều hơn ở tỉnh An Giang thời đó), 1 chợ phiên trâu bò (hàng tháng hoặc 110 ngày họp mua bán 1 lần), 2 ty Chánh Thu Quan Thuế (1 tại Châu Đốc, 1 tại Tân Châu). Trong khi tại tỉnh An Giang chỉ có 1 ty phụ thu quan thuế mà thôi. Nói về thủy sản, Châu Đốc là trên nguồn so với các tỉnh phía dưới, do đó thu hoạch thủy sản phải nhiều hơn. Riêng gia cầm gia súc như bò, trâu, heo, gà, vịt... nhờ nước bạn tiếp sức nên hàng ngày biết bao nhiêu xe hàng chuyên chở xuất tỉnh (lúc đó Châu Đốc được trung ương cấp giấy ban khen là 1 địa phương cung cấp thực phẩm cho Sài Gòn nhiều nhất). Ngoài ra những dược liệu ở Châu Đốc phải kể là nhiều nhất, xuất phát từ Bảy Núi trùng điệp và ngọn núi Tà Lơn của Cao Miên cung cấp. Ngoài ra còn biết bao sai sót khác, nhưng chúng tôi để công luận suy xét. ** Tài liệu tham khảo:** - Đại Nam Nhất Thống Chí do Tu Trai Nguyễn Tạo dịch. - Thoại Ngọc Hầu khai phá miền Hậu Giang và Thất Sơn mầu nhiệm do Giáo Sư Nguyễn Văn Hầu (Tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo). - Lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn Nam. - Đất Việt, Trời Nam của Thái Văn Kiểm. - Tài liệu Việt Tấn Xã (Người Việt, Đất Việt của Toan Ánh). - Tiểu sử Thượng Đẳng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh tại Đình Thần Châu Phú Châu Đốc. - Việt Nam Phật Giáo Sử của Thượng Tọa Mật Thể. - Lời thuật của các vị nhân sĩ trong ban Bảo Tồn Cổ Tích của tỉnh Châu Đốc (Ông Thông Phán Đặng Văn Giáp)

Vùng đất Tầm Phong Long

thư viện Đồng Nai

Năm Đinh Sửu (1757), Nặc - nguyên, quốc vương Chân Lạp mất, chú họ là Nặc-nhuận đang làm giám quốc, xin hiến đất Srok Kleang và Préah Trapeang (tức đất Trà Vang - Ba Thắc), cầu xin chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp, chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát chấp thuận.

Nhưng liền san đó Nặc-nhuận bị con rể là Nặc-hinh giết và cướp ngôi. Cháu Nặc-nhuận là Nặc Tôn, chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, tâu với chúa Nguyễn xin được phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ vương thuận cho, và sai tướng Thống suất ngũ dinh tại Gia Định Trương Phước Du hợp cùng Mạc Thiên Tứ mang quân đánh dẹp Nặc-hinh và đưa Nặc-tôn về nước. Nặc-tôn được phong làm phiên vương. Để tạ ơn, Nặc-tôn cắt đất Tầm Phong Long (vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu), phía bắc của vùng Srok Kleang và Préah Tra-peang, dâng cho chúa Nguyễn.

Theo Vương Hồng Sển, âm/ Tầm Phong Long/xuất phát từ "Kompong Luông” của tiếng Khmer, có nghĩa là bến, vũng, sông của vua.

Tiếp thu vùng đất Tầm Phong Long là một trong những sự kiện đặc biệt trong lịch sử dân tộc, nó vừa góp phần mở rộng cương vực của Tổ quốc ta về phương nam, vừa đánh dấu kết thúc diễn trình Nam tiến của dân tộc ta trong 775 năm (982-1757).

Ngay sau khi tiếp thu, đất Tầm Phong Long được Nguyễn Cư Trinh lập thành 3 đạo: Đông Khẩu đạo, Tân Châu đạo, Châu Đốc đạo và đặt dưới sự quản lý của dinh Long Hồ: Dinh Long Hồ lập năm 1732, năm 1800 đổi thành Vĩnh Trấn, năm 1808 đổi thành trấn Vĩnh Thanh. Để có phản ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh cho dời trị sở của dinh Long Hồ từ An Bình Đông (Cái Bè) về xứ Tầm Bào (thuộc thôn Long Hồ, thành phố Vĩnh Long ngày nay), sát bờ sông Tiền, chiến thuyền dễ dàng tiến thoái hơn. Từ đâu dinh Long Hồ có Đông Khẩu đạo án ngữ làm tiền đồn thứ hai sau Tân Châu đạo và đồn Châu Đốc bảo vệ. Để khai thác vùng tân cương, đồng thời để xác định biên giới rõ rệt giữa hai nước, mặc dù có sự can ngăn của quan lớn Sen Nguyễn Văn Nhơn, năm 1817, vua Gia Long vẫn lệnh cho Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại đào kinh núi Sập (sau gọi là Thoại Hà). Hai năm sau (1819), lại cho đào kênh Vĩnh Tế, kéo dài 5 năm mới xong.

Đào hai con kênh này quả có tác dụng vô cùng quan trọng trong công cuộc mở mang kinh tế và giữ yên bờ cõi. Nên chỉ hơn 10 năm sau, đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vùng đất mới này thành được hai phủ:

  • Tuy Biên gồm 2 huyện Tây Xuyên, Phong Phú.

  • Tân Thành có 2 huyện là Vĩnh An và Đông Xuyên.

  • Đây là cương vực ban đầu của tỉnh An Giang sau này. Đến năm 1835, lấn đất Ba Thắc lập thêm phủ Ba Xuyên, cai quản 3 huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định. Đến năm l836, chia ra thành 2 tỉnh Vĩnh Long và An Giang. Lúc này Tân Châu đạo thuộc huyện Đông Xuyên và Đông Khẩu đạo thuộc huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang.

Tiếp theo năm 1839, lập thêm huyện An Xuyên ở phủ Tân Thành, năm 1842 lấy phủ Tịnh Biên và huyện Hà Dương của Hà Tiên sáp nhập vào. Đến năm 1844, lập thêm huyện Hà Âm. Năm 1850, giải thể phủ Tịnh Biên cùng huyện Hà Âm, lấy đất này nhập vào huyện Hà Dương(1).

Như vậy đến khi Tự Đức lên ngôi, tức là gần tròn 100 năm sau khi thuộc chủ quyền người Việt, vùng Tầm Phong Long được khai mở với tiến độ khá nhanh, thành lập 274 xã thôn, phường, bang, được quy vào 3 phủ với 10 huyện, nằm trong địa phận tỉnh An Giang, tỉnh thành đặt tại Châu Đốc:

  • Phủ Tuy Biên, có 4 huyện: Tây Xuyên gồm 3 tổng với 38 xã, thôn, phố bang; Phong Phú gồm ba tổng với 31 thôn; Hà Dương (tức Lình Quỳnh) có 4 tổng với 40 thôn, phố phường; Hà Âm (tức Giang Thành) gồm 2 tổng, 40 xã thôn.

  • Phủ Tân Thành có 3 huyện: Vĩnh An gồm 4 tổng với 36 xã, thôn, phố, bang, huyện lỵ đóng tại thôn Vĩnh Phước (Sa Đéc), An Xuyên gồm 3 tổng với 25 xã thôn, huyện lỵ đặt tại thôn Tân Hựu; Đông Xuyên gồm 4 tổng với 33 xã thôn, huyện lỵ đóng ở thôn Long Sơn.

  • Phủ Ba Xuyên có hai huyện: Phong Nhiêu gồm 3 tổng với 17 xã thôn, huyện lỵ tại thôn An Khánh; Vĩnh Định gồm 4 tổng với 19 xã thôn, huyện lỵ tại thôn Đại Hữu.

  • Năm 1867, Pháp chiếm An Giang, chia vùng này ra 5 hạt (rồi đổi hạt thành tỉnh) Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Sa Đéc...

  • Ngày nay thuộc địa phận các: tỉnh An Giang, TP. Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và các huyện nam sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp.

  • Vùng đất Đông Khẩu đạo gồm: các huyện Châu thành, thị xã Sa Đéc huyện Lai Vung và huyện Lấp Vò của tỉnh Đồng Tháp ngày naY. Trụ sở đồn trú tại Sa Đéc (thôn Vĩnh Phước), được lưu dân người Việt, người Hoa khai thác từ lâu, trong đó có nhiều thôn đạt diện tích khai thác thuộc loại lớn ở Nam bộ, như Tân Hưu, Tân Long, Long Hậu, Tân Lộc, Vĩnh Phước... Dân cư tập trung ngày một đông, nhiều tụ điểm cư dân hình thành về phía sông Tiền; ngoài Sa Đéc: Nha Mân(2), Cái Tàu Hạ(3), Tòng Sơn, Cái Tàu Thượng, về phía sông Hậu có Cường Oai (Lai Vung), Cường Thành (Lấp Vò)...

Người Hoa đến đây đa phần là người Phước Tiến giỏi buôn bán hơn làm ruộng, nên chỉ có thiểu số làm nghề nông chung với người Việt hai bên bờ rạch Nha Mân. Điều này được Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam Việt chép: "Sông Nha Mân ở phía bắc huyện An Xuyên ở bờ nam sông Tiền, chảy qua hướng nam rồi chuyển lên hướng tây chẻ ra các ngã: Tam Sao/Ba Miếu, Chàng Trà/Trà Kiệt, Cổ Đồ Bà/Cha Và, Cam Phù Ly, rồi đến Bồn Giang/Cái Vồn chảy ra sông Hậu. Dọc theo hai bờ sông có nhiều ruộng vườn của người Tàu(4) mới khai phá .

Chợ Nha Mân hay rộng hơn là vùng Tân Hựu là trung tâm của vùng tập trung dân cư khá đông (Việt, Hoa, Khmer), vì vị trí nằm giữa Long Hồ và Sa Đéc, lại thêm thổ nhưỡng rất đặc biệt, nhất là nước sông Nha Mân rất ít độ phèn so với toàn vùng, rất thuận lợi cho phát triển nghề nông, làm vườn. Câu: "Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh, gái nào bảnh bằng gái Nha Mân” nhằm ngợi ca sắc đẹp người con gái Nha Mân nhất là nước da trắng. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), huyện Vĩnh An tách ra làm hai thành lập huyện mới mang tên An Xuyên, trị sở của huyện đóng tại thôn Tân Hựu(5). Chung quanh dinh thự tại huyện lỵ tập trung nhiều dân cư buôn bán ngày một sung túc, được dân gian quen gọi là chợ Dinh, sự sung túc của chợ được ca ngợi qua mấy câu:

Đố anh con rít mấy chưn,

Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người;

Chợ Dinh bán áo con trai,

Chợ Trong bán chỉ, chợ Ngoài bán kim...(6)

Trong cuộc nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh (1777-1802), sau bao nhiêu lần thảm bại trước lực lượng bách chiến bách thẳng của Tây Sơn, năm 1788, Nguyễn Ánh về lập căn cứ ở Tân Long (Long Hưng), kề cận Sa Đéc. Lợi dụng chính quyền cơ sở của Đông định vương Nguyễn Lữ (Tây Sơn) trên địa bàn này quá non yếu, chưa thực hiện được công trình kinh tế - xã hội nào nhằm cải thiện, phục vụ đời sống cho nhân dân địa phương. Nguyễn Ánh triệt để khai thác lợi thế về vị trí và vai trò của con người và vùng đất Đông Khẩu đạo. Biến nơi này thành trung tâm thu hút nhiều quan văn, võ tướng, đại điền chủ trung thành với quan niệm tôn phò "chính thống”. Thế lực này đã góp phần giúp Nguyễn Ánh đánh bật Tân Sơn ra khỏi Nam bộ. Cuộc nội chiến vô hình chung biến vùng Đông Khẩu đạo thành nơi tập trung một số môn đồ Nho học, ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi Nho học vốn chưa phổ biến sâu rộng. Điều này tác động không nhỏ đến quá trình hình bản sắc văn hóa địa phương.

Đạo Tân Châu gồm phần đất phía bắc sông Tiền, của các huyện Chợ Mới, Phú Tân, Phú Châu và Tân Châu của tỉnh An Giang ngày nay, trị sở lúc đầu đóng trên cù lao Gieng, sau dời về thôn Long Sơn, trên cù lao Cái Vừng. Đất Tân Châu như những chiếc chiến hạm khổng lồ, nằm án ngữ trên dòng sông Cửu Long, ngăn chặn sự xâm nhập từ hướng Chân Lạp.

Để có phản ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nguyễn Cư Trinh lấy Dinh châu làm trị sở của Tân Châu đạo(7). Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép rõ: "Dinh châu, tục gọi là cù lao Gieng ở thượng lưu sông Tiền, cách trấn về phía tây 117 dặm. Trước kia là đất thuộc đạo Tân Châu. Ở đây có dân cư của 4 thôn: Toàn Đức, Mỹ Hưng, Toàn Đức Đông, Phú Hưng. Phía tây có cù lao nhỏ cư dân của các thôn: Tân Phước, Phú An và Tân Tịch (tức cù lao Trâu, còn gọi là Ngưu châu). Phía nam có cù lao nhỏ cư dân của thôn Tân Thới”.

Tại đây có xây dựng một đồn lớn giữa hai sông làm trung tâm kiêm quản luôn cả hai thủ Chiến Sai và thủ Hùng Ngự. Do đồn Tân Châu vừa trú đóng nơi địa đầu hiểm yếu vừa cai quản hai thủ khác, nên Tân Châu không thuộc quyền cai quản của trấn địa phương là Long Hồ, rồi sau đó là Vĩnh Thanh mà trực tiếp thuộc quyền điều động của Gia Định phủ rồi Gia Định thành tức là chính quyền trung ương của Nguyễn Ánh. Điều đó cho thấy vai trò, vị thế của Tân Châu đạo trong việc bảo vệ tuyến biên giới tây nam. Trên tuyến này từ Tây Ninh đến Hà Tiên, dưới thời chúa Nguyễn và đầu nhà Nguyễn, có bố trí các đồn thủ biên phòng, như Quang Hóa (Tây Ninh), Tuyên Oai, Thông Bình, Hùng Ngự (Định Tường), Tân Châu, Chiến Sai, Châu Đốc (An Giang)... Trong đó, đồn Tân Châu nằm ở vị trí đặc biệt nhất(8 ).

Năm 1795, để lấy lòng người: Chân Lạp với mục đích giữ yên vùng biên giới tây nam, để tập trung vào việc chuẩn bị binh lực tiến công Tây Sơn ở miền Trung, chính quyền Gia Định trao trả 68 sở thủy lợi ở vùng biên giới (trên sông Sở Thượng và Sở Hạ) cho chính quyền Chân Lạp. Điều này càng làm cho trách nhiệm giữ yên biên giới của Tân Châu đạo nặng nề hơn, vì trước đây có các sở này làm vùng đệm, nay đồn Tân Châu phải tiếp cận sát sườn với Chân Lạp.

Đến năm Gia Long thứ 17 (1818 ), tình hình trong nước biên giới ổn định, triều đình ra lệnh dời đạo thủ Tân Châu đến cù lao Long Sơn, dời đạo thủ Chiến Sai đến cửa trên sông Hiệp Ân (sông Hồng Ngự ngày nay), dời đạo thủ Hùng Ngự đến cửa dưới sông Hiệp Ân(9).

Đạo Châu Đốc với đất đai trải dài dọc theo biên giới Chân Lạp, bên cạnh công lao khai hoang mở cõi các thế hệ trước còn đổ nhiều xương máu để giữ yên cương vực trong suốt một thời gian dài đương đầu chống lại âm mưu đông tiến của người Xiêm, thường tận dụng mọi cơ hội để ra tay.

Đến tháng 9 năm Tân Sửu (1841), lợi dụng khi quân ta do Trương Minh Giảng thống lĩnh, rời Chân Lạp về nước, người Xiêm dựng lên một hoàng tôn (cho là con hoàng tử Cảnh, cháu nội đích tôn của vua Gia Long, người chính thức được lên ngôi sau khi Gia Long băng hà, chứ không phải hoàng tử là Đảm, tức Minh Mạng), tập hợp một số người Lào, Chân Lạp, Việt... về nước giành lại ngôi báu, dưới sự bảo trợ của họ.

Để thực hiện âm mưu này, tháng Giêng năm Nhâm Dần (1842) Phi Nhả Chất Tri sai tướng ô Thiệt Vương cho thủy quân tấn công Phú Quốc thăm dò, trên bộ, cho khoảng 5.000 quân hộ tống hoàng tôn đến Sách Sô (thuộc hạt Nam Ninh, trấn Tây Thành) và 10 thuyền đến đồn Cần Thăng thám sát kích động người Chân Lạp nổi dậy ở phủ Ba Xuyên, Sóc Trăng, Thất Sơn... qua tháng Hai, chúng xua đại quân tràn qua kinh Vĩnh Tế kết hợp với quân nổi dậy đánh phá các đồn Thất Sơn, Tân Châu, An Lạc, Hồng Ngự, Thông Bình... cướp bóc, bắn giết... gây thảm cảnh tang tóc khắp tuyến biên giới, nhất là ở Hà Tiên. Quân triều huy động quân binh cả 6 tỉnh Nam kỳ do tổng đốc Định Biên Lê Văn Đức làm tổng thống quân vụ, thự tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri Phương, tổng đốc An Hà Phạm Văn Điển cùng đề đốc An Giang chia đường cùng nhân dân địa phương ra sức đương cự với giặc trên một tuyến dài từ Tiền Giang qua Hậu Giang, Thất Sơn đến tận Hà Tiên. Đến tháng Năm, ta tăng cường quân số, chia làm năm mũi tiến đánh, phá tan các chiến lũy của giặc, có đến cả ngàn ra hàng trong đó phần lớn là người Hoa và Chân Lạp. Thừa thắng ta truy đuổi giặc đến tận Phnom Pênh.

Nếu trong buổi đầu Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh là người quy hoạch đất đai, thiết chế hành chánh, xây dựng đồn bảo, điều động binh lính bảo đảm an ninh vùng đất mới, thì Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại là người đã từng trực tiếp đốc suất việc đào kinh Vĩnh Tế, mở ruộng lập vườn, đắp nhiều đường, bắc cầu để phục vụ yêu cầu giao thông trong xứ và với nước láng giềng Chân Lạp, sau đó Doãn Uẩn, tổng đốc An Hà, ngoài đại công dẹp loạn, ông còn đặc biệt quan tâm ổn định đời sống nhân dân, chăm lo cả về sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng, tạo niềm tin, chỗ dựa tinh thần với ước vọng an lành cho cuộc vùng biên giới Tây nam tổ quốc. Chùa Tây An được Doãn Uẩn chủ trương xây dựng trong niềm ước vọng đó.

Nhưng có một người không phải là quan chức nhà nước, không hưởng bổng lộc của triều đình, bị giam lỏng trong chùa Tân An, lại góp phần không nhỏ trong công cuộc "an tây”, từ quy dân khai hoang lập ấp đến khai sáng ra một mối đạo, mà hàng trăm năm sau có tới hàng triệu tín đồ khắp đồng bằng sông Cửu Long. Vị đó là Phật thầy Tân An Đoàn Minh Huyên, người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.

CHÚ THÍCH:

(1) Quốc sử quán (1972) Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, Phủ quốc Vụ khanh đặc trách văn hóa (Sài Gòn), tr.9.

(2) Nha Mân: Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký là do tiếng Oknà Mẳn. Tuy nhiên cũng có người cho rằng là do Oknà Muối vì nó gần với âm "nha mân” hơn. Oknà hay Oknha là một quan chức của người Khmer/ Chân Lạp có quyền cai quản một trấn, một hạt.

(3) Theo nhà Nam bộ học Sơn Nam, Cái Tàu là địa danh chỉ nơi có nhiều người Tàu cư ngụ. Cái Tàu Hạ để phân biệt với Cái Tàu Thượng ở Hội An (nơi giáp ranh giữa hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Ở Nam bộ, ngoài hai địa danh này còn có địa danh Cái Tàu và Ngã ba Tàu ở Cà Mau. Nơi đây cũng là nơi có nhiều người Tàu cư ngụ, nhưng cũng là nơi bọn cướp biển Tàu Ô thường lẩn trốn và tại ngã ba này có một doi đất hình mũi tàu nhô ra. (Xem thêm Tìm hiểu địa danh Nam bộ của Nguyễn Hữu Hiếu, Nxb. KHXH, 2005 ).Trong Bản dịch Đại Nam nhất thống chí, tập 5 của Viện sử học, Nxb Thuận Hóa, 2006, ở trang 201 và 204, dịch tên hai con rạch Cái Tàu Hạ là kênh Hạ Thuyền và rạch Cái Tàu Thượng là kênh Thượng Thuyền nghe rất xa lạ, không biết hai con rạch này trên thực địa nằm ở đâu!

(4) Quốc sử quán, Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, tập III, PQVKĐTVH, 1973, tr.20, 24.

(5) Quốc sử quán: Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, tập Hạ, PQVKĐTVH, 1973, tr.20, 24.

(6) Nhưng không biết ám chỉ chợ Dinh nào, vì có một số chợ ở nơi khác cũng mang tên chợ Dinh.

(7) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, tập Trung, tr.16.

(8 ) Quốc sử quán: Đại Nam thực lục T.II, tr.126-136.

(9) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Nxb Đồng Nai, 2005, tr.219-220.

(10) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.9.

(11) Dẫn lại Thawi Swangpanyankoon, trong Xưa&Nay, số 2003 (131) .

Trích tạp chí Xưa & Nay

## Vùng đất Tầm Phong Long #### thư viện Đồng Nai Năm Đinh Sửu (1757), Nặc - nguyên, quốc vương Chân Lạp mất, chú họ là Nặc-nhuận đang làm giám quốc, xin hiến đất Srok Kleang và Préah Trapeang (tức đất Trà Vang - Ba Thắc), cầu xin chúa Nguyễn phong làm vua Chân Lạp, chúa Võ vương Nguyễn Phước Khoát chấp thuận. Nhưng liền san đó Nặc-nhuận bị con rể là Nặc-hinh giết và cướp ngôi. Cháu Nặc-nhuận là Nặc Tôn, chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, tâu với chúa Nguyễn xin được phong làm vua Chân Lạp. Chúa Võ vương thuận cho, và sai tướng Thống suất ngũ dinh tại Gia Định Trương Phước Du hợp cùng Mạc Thiên Tứ mang quân đánh dẹp Nặc-hinh và đưa Nặc-tôn về nước. Nặc-tôn được phong làm phiên vương. Để tạ ơn, Nặc-tôn cắt đất Tầm Phong Long (vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu), phía bắc của vùng Srok Kleang và Préah Tra-peang, dâng cho chúa Nguyễn. Theo Vương Hồng Sển, âm/ Tầm Phong Long/xuất phát từ "Kompong Luông” của tiếng Khmer, có nghĩa là bến, vũng, sông của vua. Tiếp thu vùng đất Tầm Phong Long là một trong những sự kiện đặc biệt trong lịch sử dân tộc, nó vừa góp phần mở rộng cương vực của Tổ quốc ta về phương nam, vừa đánh dấu kết thúc diễn trình Nam tiến của dân tộc ta trong 775 năm (982-1757). Ngay sau khi tiếp thu, đất Tầm Phong Long được Nguyễn Cư Trinh lập thành 3 đạo: Đông Khẩu đạo, Tân Châu đạo, Châu Đốc đạo và đặt dưới sự quản lý của dinh Long Hồ: Dinh Long Hồ lập năm 1732, năm 1800 đổi thành Vĩnh Trấn, năm 1808 đổi thành trấn Vĩnh Thanh. Để có phản ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh cho dời trị sở của dinh Long Hồ từ An Bình Đông (Cái Bè) về xứ Tầm Bào (thuộc thôn Long Hồ, thành phố Vĩnh Long ngày nay), sát bờ sông Tiền, chiến thuyền dễ dàng tiến thoái hơn. Từ đâu dinh Long Hồ có Đông Khẩu đạo án ngữ làm tiền đồn thứ hai sau Tân Châu đạo và đồn Châu Đốc bảo vệ. Để khai thác vùng tân cương, đồng thời để xác định biên giới rõ rệt giữa hai nước, mặc dù có sự can ngăn của quan lớn Sen Nguyễn Văn Nhơn, năm 1817, vua Gia Long vẫn lệnh cho Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại đào kinh núi Sập (sau gọi là Thoại Hà). Hai năm sau (1819), lại cho đào kênh Vĩnh Tế, kéo dài 5 năm mới xong. Đào hai con kênh này quả có tác dụng vô cùng quan trọng trong công cuộc mở mang kinh tế và giữ yên bờ cõi. Nên chỉ hơn 10 năm sau, đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vùng đất mới này thành được hai phủ: - Tuy Biên gồm 2 huyện Tây Xuyên, Phong Phú. - Tân Thành có 2 huyện là Vĩnh An và Đông Xuyên. - Đây là cương vực ban đầu của tỉnh An Giang sau này. Đến năm 1835, lấn đất Ba Thắc lập thêm phủ Ba Xuyên, cai quản 3 huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định. Đến năm l836, chia ra thành 2 tỉnh Vĩnh Long và An Giang. Lúc này Tân Châu đạo thuộc huyện Đông Xuyên và Đông Khẩu đạo thuộc huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Tiếp theo năm 1839, lập thêm huyện An Xuyên ở phủ Tân Thành, năm 1842 lấy phủ Tịnh Biên và huyện Hà Dương của Hà Tiên sáp nhập vào. Đến năm 1844, lập thêm huyện Hà Âm. Năm 1850, giải thể phủ Tịnh Biên cùng huyện Hà Âm, lấy đất này nhập vào huyện Hà Dương(1). Như vậy đến khi Tự Đức lên ngôi, tức là gần tròn 100 năm sau khi thuộc chủ quyền người Việt, vùng Tầm Phong Long được khai mở với tiến độ khá nhanh, thành lập 274 xã thôn, phường, bang, được quy vào 3 phủ với 10 huyện, nằm trong địa phận tỉnh An Giang, tỉnh thành đặt tại Châu Đốc: - Phủ Tuy Biên, có 4 huyện: Tây Xuyên gồm 3 tổng với 38 xã, thôn, phố bang; Phong Phú gồm ba tổng với 31 thôn; Hà Dương (tức Lình Quỳnh) có 4 tổng với 40 thôn, phố phường; Hà Âm (tức Giang Thành) gồm 2 tổng, 40 xã thôn. - Phủ Tân Thành có 3 huyện: Vĩnh An gồm 4 tổng với 36 xã, thôn, phố, bang, huyện lỵ đóng tại thôn Vĩnh Phước (Sa Đéc), An Xuyên gồm 3 tổng với 25 xã thôn, huyện lỵ đặt tại thôn Tân Hựu; Đông Xuyên gồm 4 tổng với 33 xã thôn, huyện lỵ đóng ở thôn Long Sơn. - Phủ Ba Xuyên có hai huyện: Phong Nhiêu gồm 3 tổng với 17 xã thôn, huyện lỵ tại thôn An Khánh; Vĩnh Định gồm 4 tổng với 19 xã thôn, huyện lỵ tại thôn Đại Hữu. - Năm 1867, Pháp chiếm An Giang, chia vùng này ra 5 hạt (rồi đổi hạt thành tỉnh) Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Sa Đéc... - Ngày nay thuộc địa phận các: tỉnh An Giang, TP. Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng và các huyện nam sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp. - Vùng đất Đông Khẩu đạo gồm: các huyện Châu thành, thị xã Sa Đéc huyện Lai Vung và huyện Lấp Vò của tỉnh Đồng Tháp ngày naY. Trụ sở đồn trú tại Sa Đéc (thôn Vĩnh Phước), được lưu dân người Việt, người Hoa khai thác từ lâu, trong đó có nhiều thôn đạt diện tích khai thác thuộc loại lớn ở Nam bộ, như Tân Hưu, Tân Long, Long Hậu, Tân Lộc, Vĩnh Phước... Dân cư tập trung ngày một đông, nhiều tụ điểm cư dân hình thành về phía sông Tiền; ngoài Sa Đéc: Nha Mân(2), Cái Tàu Hạ(3), Tòng Sơn, Cái Tàu Thượng, về phía sông Hậu có Cường Oai (Lai Vung), Cường Thành (Lấp Vò)... Người Hoa đến đây đa phần là người Phước Tiến giỏi buôn bán hơn làm ruộng, nên chỉ có thiểu số làm nghề nông chung với người Việt hai bên bờ rạch Nha Mân. Điều này được Đại Nam nhất thống chí Lục tỉnh Nam Việt chép: "Sông Nha Mân ở phía bắc huyện An Xuyên ở bờ nam sông Tiền, chảy qua hướng nam rồi chuyển lên hướng tây chẻ ra các ngã: Tam Sao/Ba Miếu, Chàng Trà/Trà Kiệt, Cổ Đồ Bà/Cha Và, Cam Phù Ly, rồi đến Bồn Giang/Cái Vồn chảy ra sông Hậu. Dọc theo hai bờ sông có nhiều ruộng vườn của người Tàu(4) mới khai phá . Chợ Nha Mân hay rộng hơn là vùng Tân Hựu là trung tâm của vùng tập trung dân cư khá đông (Việt, Hoa, Khmer), vì vị trí nằm giữa Long Hồ và Sa Đéc, lại thêm thổ nhưỡng rất đặc biệt, nhất là nước sông Nha Mân rất ít độ phèn so với toàn vùng, rất thuận lợi cho phát triển nghề nông, làm vườn. Câu: "Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh, gái nào bảnh bằng gái Nha Mân” nhằm ngợi ca sắc đẹp người con gái Nha Mân nhất là nước da trắng. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), huyện Vĩnh An tách ra làm hai thành lập huyện mới mang tên An Xuyên, trị sở của huyện đóng tại thôn Tân Hựu(5). Chung quanh dinh thự tại huyện lỵ tập trung nhiều dân cư buôn bán ngày một sung túc, được dân gian quen gọi là chợ Dinh, sự sung túc của chợ được ca ngợi qua mấy câu: Đố anh con rít mấy chưn, Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mấy người; Chợ Dinh bán áo con trai, Chợ Trong bán chỉ, chợ Ngoài bán kim...(6) Trong cuộc nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh (1777-1802), sau bao nhiêu lần thảm bại trước lực lượng bách chiến bách thẳng của Tây Sơn, năm 1788, Nguyễn Ánh về lập căn cứ ở Tân Long (Long Hưng), kề cận Sa Đéc. Lợi dụng chính quyền cơ sở của Đông định vương Nguyễn Lữ (Tây Sơn) trên địa bàn này quá non yếu, chưa thực hiện được công trình kinh tế - xã hội nào nhằm cải thiện, phục vụ đời sống cho nhân dân địa phương. Nguyễn Ánh triệt để khai thác lợi thế về vị trí và vai trò của con người và vùng đất Đông Khẩu đạo. Biến nơi này thành trung tâm thu hút nhiều quan văn, võ tướng, đại điền chủ trung thành với quan niệm tôn phò "chính thống”. Thế lực này đã góp phần giúp Nguyễn Ánh đánh bật Tân Sơn ra khỏi Nam bộ. Cuộc nội chiến vô hình chung biến vùng Đông Khẩu đạo thành nơi tập trung một số môn đồ Nho học, ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi Nho học vốn chưa phổ biến sâu rộng. Điều này tác động không nhỏ đến quá trình hình bản sắc văn hóa địa phương. Đạo Tân Châu gồm phần đất phía bắc sông Tiền, của các huyện Chợ Mới, Phú Tân, Phú Châu và Tân Châu của tỉnh An Giang ngày nay, trị sở lúc đầu đóng trên cù lao Gieng, sau dời về thôn Long Sơn, trên cù lao Cái Vừng. Đất Tân Châu như những chiếc chiến hạm khổng lồ, nằm án ngữ trên dòng sông Cửu Long, ngăn chặn sự xâm nhập từ hướng Chân Lạp. Để có phản ứng nhanh và hiệu quả trong việc bảo vệ biên cương, Nguyễn Cư Trinh lấy Dinh châu làm trị sở của Tân Châu đạo(7). Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép rõ: "Dinh châu, tục gọi là cù lao Gieng ở thượng lưu sông Tiền, cách trấn về phía tây 117 dặm. Trước kia là đất thuộc đạo Tân Châu. Ở đây có dân cư của 4 thôn: Toàn Đức, Mỹ Hưng, Toàn Đức Đông, Phú Hưng. Phía tây có cù lao nhỏ cư dân của các thôn: Tân Phước, Phú An và Tân Tịch (tức cù lao Trâu, còn gọi là Ngưu châu). Phía nam có cù lao nhỏ cư dân của thôn Tân Thới”. Tại đây có xây dựng một đồn lớn giữa hai sông làm trung tâm kiêm quản luôn cả hai thủ Chiến Sai và thủ Hùng Ngự. Do đồn Tân Châu vừa trú đóng nơi địa đầu hiểm yếu vừa cai quản hai thủ khác, nên Tân Châu không thuộc quyền cai quản của trấn địa phương là Long Hồ, rồi sau đó là Vĩnh Thanh mà trực tiếp thuộc quyền điều động của Gia Định phủ rồi Gia Định thành tức là chính quyền trung ương của Nguyễn Ánh. Điều đó cho thấy vai trò, vị thế của Tân Châu đạo trong việc bảo vệ tuyến biên giới tây nam. Trên tuyến này từ Tây Ninh đến Hà Tiên, dưới thời chúa Nguyễn và đầu nhà Nguyễn, có bố trí các đồn thủ biên phòng, như Quang Hóa (Tây Ninh), Tuyên Oai, Thông Bình, Hùng Ngự (Định Tường), Tân Châu, Chiến Sai, Châu Đốc (An Giang)... Trong đó, đồn Tân Châu nằm ở vị trí đặc biệt nhất(8 ). Năm 1795, để lấy lòng người: Chân Lạp với mục đích giữ yên vùng biên giới tây nam, để tập trung vào việc chuẩn bị binh lực tiến công Tây Sơn ở miền Trung, chính quyền Gia Định trao trả 68 sở thủy lợi ở vùng biên giới (trên sông Sở Thượng và Sở Hạ) cho chính quyền Chân Lạp. Điều này càng làm cho trách nhiệm giữ yên biên giới của Tân Châu đạo nặng nề hơn, vì trước đây có các sở này làm vùng đệm, nay đồn Tân Châu phải tiếp cận sát sườn với Chân Lạp. Đến năm Gia Long thứ 17 (1818 ), tình hình trong nước biên giới ổn định, triều đình ra lệnh dời đạo thủ Tân Châu đến cù lao Long Sơn, dời đạo thủ Chiến Sai đến cửa trên sông Hiệp Ân (sông Hồng Ngự ngày nay), dời đạo thủ Hùng Ngự đến cửa dưới sông Hiệp Ân(9). Đạo Châu Đốc với đất đai trải dài dọc theo biên giới Chân Lạp, bên cạnh công lao khai hoang mở cõi các thế hệ trước còn đổ nhiều xương máu để giữ yên cương vực trong suốt một thời gian dài đương đầu chống lại âm mưu đông tiến của người Xiêm, thường tận dụng mọi cơ hội để ra tay. Đến tháng 9 năm Tân Sửu (1841), lợi dụng khi quân ta do Trương Minh Giảng thống lĩnh, rời Chân Lạp về nước, người Xiêm dựng lên một hoàng tôn (cho là con hoàng tử Cảnh, cháu nội đích tôn của vua Gia Long, người chính thức được lên ngôi sau khi Gia Long băng hà, chứ không phải hoàng tử là Đảm, tức Minh Mạng), tập hợp một số người Lào, Chân Lạp, Việt... về nước giành lại ngôi báu, dưới sự bảo trợ của họ. Để thực hiện âm mưu này, tháng Giêng năm Nhâm Dần (1842) Phi Nhả Chất Tri sai tướng ô Thiệt Vương cho thủy quân tấn công Phú Quốc thăm dò, trên bộ, cho khoảng 5.000 quân hộ tống hoàng tôn đến Sách Sô (thuộc hạt Nam Ninh, trấn Tây Thành) và 10 thuyền đến đồn Cần Thăng thám sát kích động người Chân Lạp nổi dậy ở phủ Ba Xuyên, Sóc Trăng, Thất Sơn... qua tháng Hai, chúng xua đại quân tràn qua kinh Vĩnh Tế kết hợp với quân nổi dậy đánh phá các đồn Thất Sơn, Tân Châu, An Lạc, Hồng Ngự, Thông Bình... cướp bóc, bắn giết... gây thảm cảnh tang tóc khắp tuyến biên giới, nhất là ở Hà Tiên. Quân triều huy động quân binh cả 6 tỉnh Nam kỳ do tổng đốc Định Biên Lê Văn Đức làm tổng thống quân vụ, thự tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri Phương, tổng đốc An Hà Phạm Văn Điển cùng đề đốc An Giang chia đường cùng nhân dân địa phương ra sức đương cự với giặc trên một tuyến dài từ Tiền Giang qua Hậu Giang, Thất Sơn đến tận Hà Tiên. Đến tháng Năm, ta tăng cường quân số, chia làm năm mũi tiến đánh, phá tan các chiến lũy của giặc, có đến cả ngàn ra hàng trong đó phần lớn là người Hoa và Chân Lạp. Thừa thắng ta truy đuổi giặc đến tận Phnom Pênh. Nếu trong buổi đầu Nghi biểu hầu Nguyễn Cư Trinh là người quy hoạch đất đai, thiết chế hành chánh, xây dựng đồn bảo, điều động binh lính bảo đảm an ninh vùng đất mới, thì Thoại ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại là người đã từng trực tiếp đốc suất việc đào kinh Vĩnh Tế, mở ruộng lập vườn, đắp nhiều đường, bắc cầu để phục vụ yêu cầu giao thông trong xứ và với nước láng giềng Chân Lạp, sau đó Doãn Uẩn, tổng đốc An Hà, ngoài đại công dẹp loạn, ông còn đặc biệt quan tâm ổn định đời sống nhân dân, chăm lo cả về sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng, tạo niềm tin, chỗ dựa tinh thần với ước vọng an lành cho cuộc vùng biên giới Tây nam tổ quốc. Chùa Tây An được Doãn Uẩn chủ trương xây dựng trong niềm ước vọng đó. Nhưng có một người không phải là quan chức nhà nước, không hưởng bổng lộc của triều đình, bị giam lỏng trong chùa Tân An, lại góp phần không nhỏ trong công cuộc "an tây”, từ quy dân khai hoang lập ấp đến khai sáng ra một mối đạo, mà hàng trăm năm sau có tới hàng triệu tín đồ khắp đồng bằng sông Cửu Long. Vị đó là Phật thầy Tân An Đoàn Minh Huyên, người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. CHÚ THÍCH: (1) Quốc sử quán (1972) Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, Phủ quốc Vụ khanh đặc trách văn hóa (Sài Gòn), tr.9. (2) Nha Mân: Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký là do tiếng Oknà Mẳn. Tuy nhiên cũng có người cho rằng là do Oknà Muối vì nó gần với âm "nha mân” hơn. Oknà hay Oknha là một quan chức của người Khmer/ Chân Lạp có quyền cai quản một trấn, một hạt. (3) Theo nhà Nam bộ học Sơn Nam, Cái Tàu là địa danh chỉ nơi có nhiều người Tàu cư ngụ. Cái Tàu Hạ để phân biệt với Cái Tàu Thượng ở Hội An (nơi giáp ranh giữa hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Ở Nam bộ, ngoài hai địa danh này còn có địa danh Cái Tàu và Ngã ba Tàu ở Cà Mau. Nơi đây cũng là nơi có nhiều người Tàu cư ngụ, nhưng cũng là nơi bọn cướp biển Tàu Ô thường lẩn trốn và tại ngã ba này có một doi đất hình mũi tàu nhô ra. (Xem thêm Tìm hiểu địa danh Nam bộ của Nguyễn Hữu Hiếu, Nxb. KHXH, 2005 ).Trong Bản dịch Đại Nam nhất thống chí, tập 5 của Viện sử học, Nxb Thuận Hóa, 2006, ở trang 201 và 204, dịch tên hai con rạch Cái Tàu Hạ là kênh Hạ Thuyền và rạch Cái Tàu Thượng là kênh Thượng Thuyền nghe rất xa lạ, không biết hai con rạch này trên thực địa nằm ở đâu! (4) Quốc sử quán, Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, tập III, PQVKĐTVH, 1973, tr.20, 24. (5) Quốc sử quán: Đại Nam nhất thống chí, Lục tỉnh Nam Việt, tập Hạ, PQVKĐTVH, 1973, tr.20, 24. (6) Nhưng không biết ám chỉ chợ Dinh nào, vì có một số chợ ở nơi khác cũng mang tên chợ Dinh. (7) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, tập Trung, tr.16. (8 ) Quốc sử quán: Đại Nam thực lục T.II, tr.126-136. (9) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Nxb Đồng Nai, 2005, tr.219-220. (10) Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.9. (11) Dẫn lại Thawi Swangpanyankoon, trong Xưa&Nay, số 2003 (131) . Trích tạp chí Xưa & Nay
123
4.38k
13
1
xem trước trực tiếp
nhập ít nhất 10 ký tự
Cảnh báo: You mentioned %MENTIONS%, but they cannot see this message and will not be notified
Đang lưu...
Đã lưu
Trạng thái
With đã chọn deselect posts xem các bài viết đã chọn
All posts under this topic will be đã xóa ?
Đang còn lưu nháp ... Click để sửa đổi lại
Xóa lưu nháp