THẰNG CHUM XỨ CÁ
Nhà nghèo
Khiêm Cung
1947
Lúc đó thằng Chum mười tuổi. Không rõ nó xấu hấy hay sợ trùng tên với ai, Bà ngoại nó đặt tên nó là Chum. Chum theo nghĩa thông thường là cái hũ lớn để đựng nước hay tương. Có lẽ bà ngoại vô tình chọn cho nó một cái tên như vậy để gọi, chớ không quan tâm gì đến ý nghĩa của chữ Chum.
Nó sanh ra trong một gia đình nghèo. Nghe nói ông bà nội nó rất khá giả, làm nghề cá mắm, nhà có rất nhiều ghe xuồng, công nhân thường được gọi cho lịch sự là “bạn”, hàng mấy mươi người. Ông bà xài toàn là mâm thau, nồi đồng, chén kiểu. Đêm đêm đèn khí đá hoặc đèn “măng xông ” tỏa ánh sáng trắng xanh rực rỡ. Mẹ nó về với cha nó lúc bà mới mười sáu tuổi, rước dâu bằng hai chiếc tàu thủy, tức là loại tàu hai từng chạy đường sông, có ống khói lớn. Nguyên nhân là ông bà nội nó đã mướn một chiếc, bà ngoại nó không hay lại mướn thêm một chiếc khác. Sau đó, vì ông bà nội vui chơi bài bạc, gia tài bị khánh kiệt.
Cha mẹ Chum nghèo ngay từ lúc được cho ra riêng, nhưng sống với nhau rất đầm ấm, sanh con đều đều, trung bình hai năm một đứa, Chum là đứa con thứ tư. Sau Chum còn thêm hai đứa nữa. Ngày xưa người ta quan niệm “bi nhiêu thì bi”, trời sanh voi trời sanh cỏ, nhà có phước mới có con đông. Phước đâu chưa thấy, mà trước mắt là cha mẹ Chum “ nghèo rớt mồng tơi, nghèo rơi nước mắt ”, chạy ăn từng bữa, con cái thay phiên nhau bịnh, có khi hai ba đứa bịnh một lượt làm ông bà điên đầu.
Cha mẹ Chum phải làm lụng thật vất vả, mướn đất để làm rẫy ruộng, trồng lúa nổi, là giống lúa nước lên đến đâu thì lúa lên cao đến đó. Có những năm nước lên nhanh quá, lúa lên không kịp, bị lút, thất mùa. Ông bà cũng làm bánh cho chị em Chum bơi xuồng đi bán khắp đầu trên xóm dưới, kiếm tiền lo cái ăn, cái mặc cho gia đình.
Thời bấy giờ, ở thôn quê miền Tây đã có nhiều người mặc quần áo may bằng bao bố. Ai mặc vải ta, dệt bằng chỉ thô, là đẹp lắm rồi. Loại vải ta thấm mồ hôi sanh ra con rận, giống như con chí, nhưng nhỏ và trắng hơn, cắn hút máu người thì thấy thân của nó ửng đỏ màu máu. Vài ngày người ta phải đem phơi nắng quần áo và lấy ve chai cà cho rận và trứng rận bể nghe rôm rốp. Đâu có xà bông để tắm giặt, chỉ giặt quần áo bằng nước tro củi chụm.
Nói về cái ăn thì chỉ lo gạo, chớ củi là nhánh cây khô, rau đủ loại như rau sam, rau dền…v.v. không thiếu gì ở ngoài đồng. Còn cá là nguồn thực phẩm bất tận từ Biển Hồ bên Miên đổ xuống:
Biển Hồ cực lắm em ơi,
Ban đêm xẻ cá, ban ngày phơi khô.
Chị của Chum thường bắt sẵn nồi cơm lên bếp, rồi mới xách cần câu xuống đầu cầu ván ở bờ sông, trong chốc lát đã được mấy con cá rô đồng đãi đạn, đủ cho một bữa cơm gia đình. Lúc nào không có cá thì mấy chị cho gia đình ăn cơm với muối xả ớt me sống, ăn cũng được cơm lắm.
Còn mẹ của Chum thường dùng cái rổ, miệng có đường kính cả thước tây, gọi là rổ bộng, dùng tay trái nhận chìm cái rổ xuống dưới mặt nước chừng một tấc, tay phải nắm mồi, quậy xộn xộn trong lòng rổ, bất ngờ mẹ Chum nhấc cái rổ lên khỏi mặt nước, rất nhiều cá lòng tong, cá thiểu đang bu lại ăn mồi bị kẹt lại trong rổ, nhảy xoi xói.
Cha của Chum hay đi nhắp hoặc câu rê cá lóc, giăng câu, đặt lờ, đặt lọp…v.v. cho gia đình dùng, khi nào dư thì đem bán để lấy tiền mua gạo. Câu rê khác với nhắp cá lóc ở chỗ nhắp thì lấy lưỡi câu móc vào đuôi con cá nhỏ còn sống như cá linh, thả dây nhợ câu xuống nước cho con cá mồi lội, cá lóc đớp cá mồi, mắc lưỡi câu. Còn câu rê dùng mồi giả là một mảnh thiếc nhỏ uốn hơi cong gắn vào sợi nhợ, gần lưỡi câu, thả mảnh thiếc và lưỡi câu xuống nước, di chuyển mảnh thiếc qua lại cho nhanh, cá lóc thấy mành thiếc chiếu loang loáng, tưởng là cá mồi, phóng đến đớp, mắc câu.
Trước nhà Chum có trải đáy. Người ta lấy gỗ tròn, đường kính độ bốn tấc, đóng cọc chận ngang con sông nhỏ, rồi lấy đăng, tức là tre đan để vừng cho cá không lội qua được, chỉ chừa một lối nhỏ để cá lội qua. Cá qua chỗ trống nầy là chui vào một cái giỏ tre dài gọi là cái đục. Cứ khoảng nữa giờ người ta kéo đục lên để bắt cá. Cha Chum thường mua cá chạch lấu của ghe đáy để nướng trui, chiên hoặc nấu cà ri cho gia đình ăn.
Mỗi năm vào mùa nước cỏ, nước trong mà đen sậm, cá tôm bị khờ, nổi lờ đờ trên mặt nước, Chum bơi xuồng, lấy rổ xúc một lát đầy xuồng.
Đôi khi cha của Chum đi phụ người ta tát đìa, Chum thích thú đi theo để khi đìa tát xong thì chủ đìa cho mót cá còn sót lại, gọi là bắt hôi. Chum lấy cái nôm chụp xuống bùn, rồi thọc tay vào nôm quậy xem trong bùn còn con cá nào thì bắt. Bùn dính đầy người, đầy mặt, nó cười, nhìn cái miệng nó người ta mới nhận ra đó là thằng Chum.
Thằng Chum sợ chồng chổng chết trôi. Có lần nọ, nó về thăm quê ngoại ở Vĩnh Lộc. Hai người chị con cậu Chum đi lưới cá trên sông cái, rủ nó đi theo chơi. Đêm không trăng. Nhìn lên trời có vài ngôi sao lấp lánh, trên mặt nước sông có những cụm lục bình trôi lờ đờ. Chum sợ điếng hồn, nó nghi đó là thây người bị giết thả trôi sông. Lúc bấy giờ có nhiều người bị cho “mò tôm” vì tội làm Việt gian.
Sợ ma mà Chum thích nghe chú Tư hàng xóm kể chuyện ma. Đêm đêm chú ngồi trước mũi chiếc xuồng ba lá với chiếc đèn bão thắp bằng dầu cá, có kiếng sơn màu đỏ che chung quanh vừa để cản gió, vừa để giảm bớt ánh sáng. Sau lái xuồng có bánh lái. Một tay chú cầm cây dầm, một tay cầm cây vợt để vớt tôm. Chú dùng tầm vong cắm mấy cây sào dọc bờ sông, rồi căng dây nhợ có buộc những cọng dây kẽm nhọn, không có ngạnh, ghim vào những miếng cơm dừa khô thòng xuống dưới mặt nước độ một gang tay. Tôm càng bu lại ăn dừa, bị vớt. Chú Tư nói có nhiều đêm chú vớt thật nhiều, nhưng sáng ra mình tôm biến đâu mất, chỉ còn lại đầu. Chuyện thật hay giả không ai biết, nhưng Chum thì tin lời chú Tư kể là thật, rồi nó lại nhớ đến đêm đêm cái đèn đỏ của chú di chuyển chầm chậm ven song, làm cho nó nổi da gà.
Chum chưa hề buồn phiền về cái nghèo khổ, vì từ nhỏ đã sống như vậy thôi, có lúc nào nó biết được trên đời nầy có một cuộc sống sung sướng hơn để mà so sánh. Cho nên nó sống vui vẻ lắm. Nhà đông con, đứa lớn trông coi đứa nhỏ. Nó giữ em, hát ru em ngủ:
Sao vua chín cái nằm chồng,
Anh thương em từ thuở mẹ bồng trên tay.
Sao vua chín cái nằm ngang,
Anh thương em từ thuở mẹ mang trong lòng.
Sao vua chín cái nằm kề,
Anh thương em từ thuở mẹ về với cha.
Nó lại nghêu ngao nhái thơ Lục Vân Tiên:
Vân Tiên cõng mẹ đi vô,
Đụng phải cái bồ cõng mẹ trở ra.
Vân Tiên cõng mẹ trở ra,
Đụng phải cột nhà cõng mẹ trở vô.
Vân Tiên cõng mẹ trở vô,…
Chị Hai nó ngắt ngang:
- Thằng khùng, mầy hát cái gì vần lân vậy hả ?
Thằng nhỏ mất hứng, cười trừ rồi nín luôn.
Người nghèo an phận, vui với cái nghèo.
http://thatsonchaudoc.com/truyenngan/thangchumxuca.htm
# THẰNG CHUM XỨ CÁ
## Nhà nghèo
### _Khiêm Cung_
1947
Lúc đó thằng Chum mười tuổi. Không rõ nó xấu hấy hay sợ trùng tên với ai, Bà ngoại nó đặt tên nó là Chum. Chum theo nghĩa thông thường là cái hũ lớn để đựng nước hay tương. Có lẽ bà ngoại vô tình chọn cho nó một cái tên như vậy để gọi, chớ không quan tâm gì đến ý nghĩa của chữ Chum.
Nó sanh ra trong một gia đình nghèo. Nghe nói ông bà nội nó rất khá giả, làm nghề cá mắm, nhà có rất nhiều ghe xuồng, công nhân thường được gọi cho lịch sự là “bạn”, hàng mấy mươi người. Ông bà xài toàn là mâm thau, nồi đồng, chén kiểu. Đêm đêm đèn khí đá hoặc đèn “măng xông ” tỏa ánh sáng trắng xanh rực rỡ. Mẹ nó về với cha nó lúc bà mới mười sáu tuổi, rước dâu bằng hai chiếc tàu thủy, tức là loại tàu hai từng chạy đường sông, có ống khói lớn. Nguyên nhân là ông bà nội nó đã mướn một chiếc, bà ngoại nó không hay lại mướn thêm một chiếc khác. Sau đó, vì ông bà nội vui chơi bài bạc, gia tài bị khánh kiệt.
Cha mẹ Chum nghèo ngay từ lúc được cho ra riêng, nhưng sống với nhau rất đầm ấm, sanh con đều đều, trung bình hai năm một đứa, Chum là đứa con thứ tư. Sau Chum còn thêm hai đứa nữa. Ngày xưa người ta quan niệm “bi nhiêu thì bi”, trời sanh voi trời sanh cỏ, nhà có phước mới có con đông. Phước đâu chưa thấy, mà trước mắt là cha mẹ Chum “ nghèo rớt mồng tơi, nghèo rơi nước mắt ”, chạy ăn từng bữa, con cái thay phiên nhau bịnh, có khi hai ba đứa bịnh một lượt làm ông bà điên đầu.
Cha mẹ Chum phải làm lụng thật vất vả, mướn đất để làm rẫy ruộng, trồng lúa nổi, là giống lúa nước lên đến đâu thì lúa lên cao đến đó. Có những năm nước lên nhanh quá, lúa lên không kịp, bị lút, thất mùa. Ông bà cũng làm bánh cho chị em Chum bơi xuồng đi bán khắp đầu trên xóm dưới, kiếm tiền lo cái ăn, cái mặc cho gia đình.
Thời bấy giờ, ở thôn quê miền Tây đã có nhiều người mặc quần áo may bằng bao bố. Ai mặc vải ta, dệt bằng chỉ thô, là đẹp lắm rồi. Loại vải ta thấm mồ hôi sanh ra con rận, giống như con chí, nhưng nhỏ và trắng hơn, cắn hút máu người thì thấy thân của nó ửng đỏ màu máu. Vài ngày người ta phải đem phơi nắng quần áo và lấy ve chai cà cho rận và trứng rận bể nghe rôm rốp. Đâu có xà bông để tắm giặt, chỉ giặt quần áo bằng nước tro củi chụm.
Nói về cái ăn thì chỉ lo gạo, chớ củi là nhánh cây khô, rau đủ loại như rau sam, rau dền…v.v. không thiếu gì ở ngoài đồng. Còn cá là nguồn thực phẩm bất tận từ Biển Hồ bên Miên đổ xuống:
_Biển Hồ cực lắm em ơi,_
_Ban đêm xẻ cá, ban ngày phơi khô._
Chị của Chum thường bắt sẵn nồi cơm lên bếp, rồi mới xách cần câu xuống đầu cầu ván ở bờ sông, trong chốc lát đã được mấy con cá rô đồng đãi đạn, đủ cho một bữa cơm gia đình. Lúc nào không có cá thì mấy chị cho gia đình ăn cơm với muối xả ớt me sống, ăn cũng được cơm lắm.
Còn mẹ của Chum thường dùng cái rổ, miệng có đường kính cả thước tây, gọi là rổ bộng, dùng tay trái nhận chìm cái rổ xuống dưới mặt nước chừng một tấc, tay phải nắm mồi, quậy xộn xộn trong lòng rổ, bất ngờ mẹ Chum nhấc cái rổ lên khỏi mặt nước, rất nhiều cá lòng tong, cá thiểu đang bu lại ăn mồi bị kẹt lại trong rổ, nhảy xoi xói.
Cha của Chum hay đi nhắp hoặc câu rê cá lóc, giăng câu, đặt lờ, đặt lọp…v.v. cho gia đình dùng, khi nào dư thì đem bán để lấy tiền mua gạo. Câu rê khác với nhắp cá lóc ở chỗ nhắp thì lấy lưỡi câu móc vào đuôi con cá nhỏ còn sống như cá linh, thả dây nhợ câu xuống nước cho con cá mồi lội, cá lóc đớp cá mồi, mắc lưỡi câu. Còn câu rê dùng mồi giả là một mảnh thiếc nhỏ uốn hơi cong gắn vào sợi nhợ, gần lưỡi câu, thả mảnh thiếc và lưỡi câu xuống nước, di chuyển mảnh thiếc qua lại cho nhanh, cá lóc thấy mành thiếc chiếu loang loáng, tưởng là cá mồi, phóng đến đớp, mắc câu.
Trước nhà Chum có trải đáy. Người ta lấy gỗ tròn, đường kính độ bốn tấc, đóng cọc chận ngang con sông nhỏ, rồi lấy đăng, tức là tre đan để vừng cho cá không lội qua được, chỉ chừa một lối nhỏ để cá lội qua. Cá qua chỗ trống nầy là chui vào một cái giỏ tre dài gọi là cái đục. Cứ khoảng nữa giờ người ta kéo đục lên để bắt cá. Cha Chum thường mua cá chạch lấu của ghe đáy để nướng trui, chiên hoặc nấu cà ri cho gia đình ăn.
Mỗi năm vào mùa nước cỏ, nước trong mà đen sậm, cá tôm bị khờ, nổi lờ đờ trên mặt nước, Chum bơi xuồng, lấy rổ xúc một lát đầy xuồng.
Đôi khi cha của Chum đi phụ người ta tát đìa, Chum thích thú đi theo để khi đìa tát xong thì chủ đìa cho mót cá còn sót lại, gọi là bắt hôi. Chum lấy cái nôm chụp xuống bùn, rồi thọc tay vào nôm quậy xem trong bùn còn con cá nào thì bắt. Bùn dính đầy người, đầy mặt, nó cười, nhìn cái miệng nó người ta mới nhận ra đó là thằng Chum.
Thằng Chum sợ chồng chổng chết trôi. Có lần nọ, nó về thăm quê ngoại ở Vĩnh Lộc. Hai người chị con cậu Chum đi lưới cá trên sông cái, rủ nó đi theo chơi. Đêm không trăng. Nhìn lên trời có vài ngôi sao lấp lánh, trên mặt nước sông có những cụm lục bình trôi lờ đờ. Chum sợ điếng hồn, nó nghi đó là thây người bị giết thả trôi sông. Lúc bấy giờ có nhiều người bị cho “mò tôm” vì tội làm Việt gian.
Sợ ma mà Chum thích nghe chú Tư hàng xóm kể chuyện ma. Đêm đêm chú ngồi trước mũi chiếc xuồng ba lá với chiếc đèn bão thắp bằng dầu cá, có kiếng sơn màu đỏ che chung quanh vừa để cản gió, vừa để giảm bớt ánh sáng. Sau lái xuồng có bánh lái. Một tay chú cầm cây dầm, một tay cầm cây vợt để vớt tôm. Chú dùng tầm vong cắm mấy cây sào dọc bờ sông, rồi căng dây nhợ có buộc những cọng dây kẽm nhọn, không có ngạnh, ghim vào những miếng cơm dừa khô thòng xuống dưới mặt nước độ một gang tay. Tôm càng bu lại ăn dừa, bị vớt. Chú Tư nói có nhiều đêm chú vớt thật nhiều, nhưng sáng ra mình tôm biến đâu mất, chỉ còn lại đầu. Chuyện thật hay giả không ai biết, nhưng Chum thì tin lời chú Tư kể là thật, rồi nó lại nhớ đến đêm đêm cái đèn đỏ của chú di chuyển chầm chậm ven song, làm cho nó nổi da gà.
Chum chưa hề buồn phiền về cái nghèo khổ, vì từ nhỏ đã sống như vậy thôi, có lúc nào nó biết được trên đời nầy có một cuộc sống sung sướng hơn để mà so sánh. Cho nên nó sống vui vẻ lắm. Nhà đông con, đứa lớn trông coi đứa nhỏ. Nó giữ em, hát ru em ngủ:
_ Sao vua chín cái nằm chồng,_
_ Anh thương em từ thuở mẹ bồng trên tay._
_Sao vua chín cái nằm ngang,_
_Anh thương em từ thuở mẹ mang trong lòng._
_Sao vua chín cái nằm kề,_
_Anh thương em từ thuở mẹ về với cha._
Nó lại nghêu ngao nhái thơ Lục Vân Tiên:
_Vân Tiên cõng mẹ đi vô,_
_Đụng phải cái bồ cõng mẹ trở ra._
_Vân Tiên cõng mẹ trở ra,_
_Đụng phải cột nhà cõng mẹ trở vô._
_Vân Tiên cõng mẹ trở vô,…_
Chị Hai nó ngắt ngang:
- Thằng khùng, mầy hát cái gì vần lân vậy hả ?
Thằng nhỏ mất hứng, cười trừ rồi nín luôn.
Người nghèo an phận, vui với cái nghèo.
http://thatsonchaudoc.com/truyenngan/thangchumxuca.htm