Việt Nam sử lược/Quyển II/1971/Phần V/Chương III
CHƯƠNG III
THÁNH-TỔ (1820 - 1840)
(tiếp theo)
Sự giặc-giã
Giặc ở Bắc-kỳ
Phan bá Vành
Lê duy Lương
Nông văn Vân
Giặc ở Nam-kỳ
Án Lê văn Duyệt và Lê Chất
Giặc Tiêm-la
Việc Ai-lao
Việc Chân-lạp
Việc giao-thiệp với những nước ngoại dương
Sự cấm đạo
Vua Thánh-tổ mất
https://vi.wikisource.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_s%E1%BB%AD_l%C6%B0%E1%BB%A3c/Quy%E1%BB%83n_II/1971/Ph%E1%BA%A7n_V/Ch%C6%B0%C6%A1ng_III
7.ÁN LÊ VĂN DUYỆT VÀ LÊ CHẤT.
Lê văn Duyệt.
Quan quân bình xong giặc Lê văn Khôi rồi vua Thánh-tổ sai phá thành Phiên-an đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống chiếu định truy tội Lê văn Duyệt 黎 文 悅 và tội Lê Chất 黎 質.
Cứ bình tình mà xét, thì chẳng qua là vua Thánh-tổ vốn có ý không ưa hai ông ấy, rồi đình-thần lại nhân đó mà bới việc ra để chiều ý ngài, cho nên thành ra hai cái án thật là không đáng.
Nay cứ theo trong sách « Đại-nam chính-biên liệt-truyện 大 南 正 編 列 傳 » mà chép ra, để mọi người đều được lấy lẽ công-bằng mà phán-đoán.
Từ khi tên Khôi khởi loạn, vua Thánh-tổ thường ban trách Lê văn Duyệt che-chở quân phỉ-đảng, để gây nên hoạn loạn.
Năm ất-vị (1835), ở Đô-sát-viện có Phan bá Đạt 潘 伯 達 dâng sớ nói rằng: Lê văn Duyệt trước ở Gia-định, lấy bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã 雅, làm trảo-nha, lấy binh Bắc-thuận, Hồi-lương[2] làm tâm-phúc. Bọn ấy vốn là quân hung-ác, không phải là người lương-thiện, cho nên Duyệt mất chưa bao lâu mà bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, đã đem quân Hồi-lương, Bắc-thuận cùng với bọn thủ-hạ giữ thành làm phản; lại làm phiến-hoặc nhân tâm, để vạ lây đến các tỉnh Nam-kỳ, mà khó-nhọc đến đại đội quan quân phải tiến tiễu. Năm tỉnh nay dẫu thu-phục rồi, song thành Phiên-an tặc đảng vẫn còn thiết cứ, quan quân tiến tiễu, lắm người thương vong, cái vạ ấy nói sao cho xiết. Nay Duyệt mất rồi, sự-trạng dẫu không có thể tường cứu được, nhưng cứ xem con nuôi là Lê văn Hán 黎 文 漢, trước đây vào ra trong thành, nhập đảng với nghịch Khôi, và đem Bạch xuân Nguyên 白 春 元 làm đuốc để tế từ-đường, thì tâm-tích của Duyệt tưởng không phải xét cũng đã rõ. Nếu không bắt tội e không làm gương được cho đời sau. Vậy xin truy đoạt quan-chức của Duyệt, còn vợ con thì giao về Hình-bộ tra-minh nghiêm-nghị, để tỏ phép nước. »
Vua dụ Nội-các rằng: « Lê văn Duyệt xuất-thân từ kẻ yêm hoạn, vốn là một đứa đầy-tớ trong nhà. Xảy gặp hồi trung-hưng, rồng mây gặp-gỡ, đánh dẹp Tây-sơn, cũng dự có phần công-lao. Đức Hoàng-khảo ta nghĩ tới nó thủa nhỏ sai-khiến ở trong cung, mới đem lòng tin-cậy, nhiều lần cho nó cầm quyền đại-tướng. Không ngờ bọn ấy phần nhiều là quân bất lương, mỗi ngày sinh ra kiêu-căng, manh-tâm phản-nghịch, sinh chí làm càn, ăn-nói hỗn-xược. Vì nó còn e Hoàng-khảo ta thánh minh, cho nên dẫu có lòng gian mà chưa dám lộ. Mà Hoàng-khảo ta đến vãn niên cũng đã biết rõ. Nhưng lại nghĩ hắn dẫu có lòng gian, song thiên-hạ đã yên rồi, thần-dân ai còn theo kẻ thị-hoạn đó, thì chắc hắn cũng chẳng làm gì được. Đến khi trẫm lên ngôi, cựu-thần không còn mấy, vả lại nghĩ nó tuổi đã già, cho nên cũng tạm khoan-dung, hoặc là hắn biết nghĩ mà chừa đi, để cho toàn vẹn công-danh, thì cũng là việc hay. Không ngờ kẻ kia lòng như rắn-rết, tính tựa sài-lang, càng ngày càng sinh kiêu-ngạo, dám nói xấu Triều đình trước mặt chúng nhân, mà khoe cái tài riêng của mình. Năm trước các quân tù phạm xứ Thanh, Nghệ cùng là những kẻ hung-ác, hắn đều chiêu-dụ ra thú, tâu xin ghép vào trướng-hạ để làm nanh-vuốt. Lê văn Khôi là quân vô-lại, thì tiến-cử đến chức vệ-úy, theo dưới cờ hắn, để làm phúc tâm. Thổ-hào như bọn Dương văn Nhã 楊 文 雅, Đặng vĩnh Ưng 鄧 永 膺 thì hắn ngầm ngấm vời dùng; nhân thích như bọn Võ vĩnh Tiền 武 永 錢, Võ vĩnh Lộc 武 永 祿 thì hắn âm-thầm lập đảng. Những kẻ tù phạm Bắc-kỳ phát phối vào đó, hắn cho ở trong thành, rồi tha cho làm lính; lại kén lấy những voi khỏe đem ra nơi đồn thú; vét lấy những thuyền bè khí-giới trong 6 tỉnh Nam-kỳ chứa vào thành Phiên-an; rồi lại nghe tên Trần nhật Vĩnh 陳 日 永 mà hút hết cao huyết của dân Nam-kỳ. Đắp thành Phiên-an, tiếm bằng Kinh-thành, hào thì đào sâu hơn. Nếu bảo thành cao hào sâu để phòng giặc Tiêm, thì đường bể phải phòng ở Hà-tiên, đường bộ phải phòng ở Chân-lạp, có lẽ nào bỏ bốn tỉnh An, Hà, Long, Tường không giữ, mà lại giữ ở Phiên-an hay sao? Thế là rõ rằng phòng Triều-đình, chứ không phải phòng ngoại hoạn. Cứ suy điều đó, thì ruột-gan hắn, dẫu người đi đường cũng biết, ai không căm-tức, chỉ giận vì ai không chịu nói rõ cho Triều-đình biết sớm mà thôi. Đến nỗi ngày nay như nuôi cái nhọt bọc để nên đau, mỗi ngày mầm vạ một lớn, cho nên kẻ quyền-yêm dẫu chịu tội minh-tru, mà bọn nhỏ-nhặt còn dám giữ thành làm phản. Ví dù quan cai-trị không hèn-đốn như Nguyễn văn Quế 阮 文 桂, tham-tàn như Bạch xuân Nguyên 白 春 元, thì chúng nó có ngày làm phản chứ không sao khỏi được. Vì bọn tiêu-hạ hắn toàn là quân hung-đồ, quen làm những việc bất-thiện. Chúng nó đã quen thấy hắn dối chúa, lấn trên, đều bắt-chước hắn. Thậm chí hắn nói với người ta rằng hắn vào trấn Gia-định, vốn là phong vương để giữ lấy đất, chứ không phải như các tổng-trấn tầm-thường khác. Mả của cha hắn, em hắn, cũng tiếm gọi là lăng; hoặc dám đối với người ta, tự xưng là Cô, để cho bộ-hạ tập quen thành thói, chỉ biết có Lê văn Duyệt mà không biết đến Triều-đình. Thầy Hữu-tử 有 子 nói rằng: « Không ưa phạm người trên mà ưa làm loạn, chưa có lẽ ấy bao giờ ». Vậy thì ưa phạm người trên và không ưa làm loạn, cũng chưa có lẽ thế bao giờ. Mối vạ gây nên đã lâu, lẽ nào mà muốn cho bọn tiêu-hạ không làm phản được? Vậy nên hắn chết chưa bao lâu, mà bọn Lê văn Khôi đã khởi loạn, cháu hắn cũng đồng tình tạo phản, để cho cả bọn bộ-khúc của hắn đều theo giặc cả, không một tên nào trốn đi, rồi nó kết tử-đảng, cậy có thành cao, hào sâu, lương-thực như núi, khí-giới tinh-nhuệ, đồ-đảng lại nhiều, kháng-cự lại vương-sư, chầy đến 3 năm trời, nhiều lần mở đường sống cho nó, mà chúng nó không biết hối tội đầu thành, đến nỗi binh dân gan-óc lầy đường, nói ra đau-xót đến gốc-nguồn thì tội hắn kể từng cái tóc cũng không xuể. Nay hãy đem những công-việc của hắn làm, rõ-ràng ở tai mắt người ta, để gây nên hoạn-loạn, hiểu-thị cho ai nấy đều biết. Còn như Lê văn Duyệt và con-cháu hắn nên xử tội thế nào, thì giao cho đình-thần nghị xử. »
Vài hôm sau, nội-các là Hà Quyền 何 權, Nguyễn tri Phương 阮 知 方, Hoàng Quýnh 黄 炯 tâu rằng: Duyệt che-chở cho quân phỉ loạn, gây nên sự biến, cái tai vạ tích lại đã lâu. Nay xét những giấy-má của y ngày trước, rõ ra hình-tích bội-nghịch, có 6 điều:
Năm Minh-mệnh thứ 4, y tự tiện sai người riêng là bọn Phan Đạt 潘 達 giả danh đi thám, đi thuyền sang nước Diến-điện. Trong thư chắc có giao-thông. Cứ lấy nghĩa « làm tôi không có phép được giao-thông với nước ngoài », thì tâm-sự của y đã rõ, ấy là một tội.
Đến khi sứ-thần nước Diến-điện đến thành, mới tâu vào Triều-đình. Đã có chỉ-dụ nói việc đó quan-hệ đến đại nghĩa, không nên khinh-thường, nghe lời ngoài mà bỏ tình hòa-hiếu, gây việc cừu-thù. Vậy mà y cố xin dung-nạp. May mà Triều-đình trả đồ cống-vật cho sứ Diến-điện về nước, thì danh-nghĩa nước lớn ta mới tỏ giải ra thiên-hạ. Thế là y chẳng những mưu việc nước không ra gì, mà lại cố giữ lấy ý riêng để che điều lỗi, ấy là hai tội.
Năm Minh-mệnh thứ 7, tàu bạt phong nước Anh-cát-lợi đậu vào cửa Bình-thuận, đã có chỉ sai sở-tại hộ tống, mà y cố xin đưa vào Gia-định, và nói rằng: « Quan trấn kiềm-thúc, không bằng thần có quyền, khiến cho kẻ kia sợ tướng-lệnh và biết binh oai ». Hai chữ « có quyền » từ xưa vẫn lấy làm răn, mà y dám ngất-ngưởng tự nhận, kiêu-tứ dường nào, ấy là ba tội.
Năm Minh-mệnh thứ 4, thị-vệ là Trần văn Tình 陳 文 情 nhân việc công-sai ở Gia-định về, có tâu việc Trần nhật Vĩnh làm riêng phố ngói, mua trộm các món. Y nghe chuyện làm vậy, năm sau vào chầu, cố xin bắt Trần văn Tình giao cho y để y chém, nếu không giao thì y xin trả chức tổng-trấn; rồi y xin từ chức thực. Có ý yêu quân như vậy, tội gì còn to bằng tội ấy. Vả y xin giết một Trần văn Tình, thế là bắt người ta phải khóa lưỡi, không ai dám nói nữa, rất là dụng tâm nham-hiểm, ấy là bốn tội.
Trần nhật Vĩnh đã có chỉ bổ thụ ký-lục Vĩnh-thanh, mà y cố xin lưu ở lại trong thành. Lê đại Cương 黎 大 綱 có chỉ tuyên-triệu, mà y cố xin lưu lại làm việc phủ Lạc-hóa, đều là có ý vi chiếu. Trong tập tâu của y lại nói rằng: « Chuẩn cho thần cầu xin việc ấy, thì hầu có ích cho việc ngoài biên-cương »; lại ở trong tập tâu xin chi-bổng cho bọn thơ-lại, cơ, đội, các vệ, có câu rằng: « Lão-thần xa ở ngoài biên-khổn, chỉ e Triều-đình tin dùng không được vững-bền ». Trong lời-lẽ ấy đều là không kính, ấy là 5 tội.
Năm Minh-mệnh thứ 6, y tâu xin tăng thọ cho Lê Chất, có nói rằng: « Ấy là vị thánh-dược khởi tử hồi sinh, tiếc gì mà không làm ». Y là chức biên-khổn dám kết đảng tư tình như thế, rất trái với đạo làm tôi, ấy là 6 tội. Vả lại nghe y bình nhật thường khoe chuyện với người ta rằng: y xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ:
Tá Hán tranh tiên chư Hán-tướng,
Phù Chu ninh hậu thập Chu-thần.
Tha niên tái ngộ Trần-kiều sự,
Nhất đán hoàng-bào bức thử thân.
DỊCH NÔM
Giúp Hán há thua cùng tướng Hán,
Phò Chu nào kém bọn tôi Chu.
Trần-kiều nếu gặp cơn binh biến,
Mảnh áo hoàng-bào dễ ép nhau!
Giá y không phải là người sẵn có bụng bất trung, thì không khi nào dám khoe bài thơ ấy với người ta. Bởi vậy bọn tiêu-hạ tập quen thành thói, cho nên thây y chưa lạnh mà đã có việc này. Vậy xin giao cả lời tâu này cho đình-thần kết án để chính tội. Vua ưng cho.
Đến khi nghị án xong, trích ra các lời nói, việc làm, bội nghịch, có 7 tội nên trảm:
Sai người đi riêng sang Diến-điện, âm kết ngoại-giao.
Xin giao tàu Anh-cát-lợi đến thành, để tỏ có quyền.
Xin giết thị-vệ là Trần văn Tình, để khóa miệng người ta.
Kháng sớ xin lưu quan-viên bổ đi chỗ khác.
Lập đảng mà xin tăng thọ cho Lê Chất.
Giấu chứa giấy ngự bảo.
Mộ cha, tiếm gọi là lăng, đối với người ta, tự xưng là cô.
Có 2 tội nên giảo: 1. cố xin dung-nạp Diến-điện để che-chở cái lỗi của mình; 2. nói chuyện với người ta xin được quẻ thẻ có câu thơ hoàng-bào.
Một tội nên phát quân: tự tiện sai biền binh tu-tạo tàu-thuyền.
Sự biến Phiên-an, y thực là đầu vạ nên chiếu theo luật mưu-phản, khép vào tội lăng-trì; song y đã chịu minh-tru, vậy xin truy-đoạt cáo sắc, bỏ quan-quách giết thây, để tỏ gương răn cho người khác. Còn như tằng-tổ, tổ-phụ của y được phong tặng cáo sắc, thì xin truy-đoạt cả; tiên phần có tiếm dụng trái phép nào thì tước-hủy đi; con, cháu, vợ cả, vợ lẽ, đều phân-biệt nghị tội; tài-sản thì tịch-biên hết.
Án ấy đệ lên. Những tội nguyên nghị trảm quyết đổi làm giam-hậu, con cháu từ 15 tuổi trở xuống, tạm hãy nghiêm cấm; trẻ thơ-ấu chưa biết gì thì tha không bắt; ba họ phải phát nô cũng đều tha; nguyên nghĩ lục thì cũng thôi.
Lại sai Hình-bộ sao bản văn án phát cho tổng-đốc, tuần-phủ các tỉnh, cho cứ ý-kiến riêng mà tâu về. Hộ-phủ Lạng-bình là Trần huy Phác 陳 輝 樸 xin điều phép tội trảm quyết. Hộ-phủ Quảng-yên là Lê dục Đức 黎 育 德 xin người nào từ 16 tuổi trở lên đều chém, còn thì đều y như đình nghị. Tổng-đốc Bình-phú là Võ xuân Cẩn 武 春 謹, Tổng-đốc Ninh-thái là Hoàng văn Trạm 黄 文 站 cũng đều xin y đình nghị. Lại nói kèm một câu rằng: hoặc nên lấy công bù tội châm-chước ít nhiều thì tự Thiên-ân.
Dụ rằng : « Xem vậy thì đủ biết lẽ trời không sai, mà công đạo ở lòng người không ai giấu được. Kẻ quyền-gian kia gây vạ, thiên-hạ ai ai cũng căm-tức, muôn miệng cùng lời, đủ tỏ cái án sắt nghìn xưa. Tội Lê văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan-quách mà giết thây, cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy-đoạt quan tước, xương khô trong mả, không bõ gia hình. Vậy cho tổng-đốc Gia-định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên viết to những chữ « Chỗ này là nơi quyền-yêm Lê văn Duyệt phục pháp », để chính tội danh cho kẻ đã chết, mà tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền-gian muôn đời.
Không những Lê văn Duyệt là họa thủ tội khôi, mà tên cháu y là Lê văn Hán cũng giao thông với giặc, thì thân-thuộc phải tội, trong luật đã có điều nói rõ rồi. Song nghĩ nó chẳng qua cuồng-dại một lúc, qua lại với giặc mà thôi, sánh với kẻ trước sau theo giặc kháng-cự quan quân, hơi có khác nhau. Và đã xử cực hình, cũng đủ tỏ phép nước rồi. Những kẻ thân-thuộc khác, khép tội trảm giam hậu, cũng đủ cho nó phục tội. Lời dụ này chuẩn lục-tống phát cho mỗi tỉnh một đạo, để cho ai nấy đều biết Triều-đình xử rất công, rõ-ràng cái cân ba thước mà nghiêm như rìu búa nghìn thu. »
Án Lê Chất.
Án Lê văn Duyệt phát ra năm trước thì năm sau có quan Lại-bộ tả thị-lang là Lê bá Tú 黎 伯 秀 truy tham những tội bất thần của Lê Chất 黎 質, có 6 tội nên chết:
Chất cùng Duyệt toan mưu làm việc Y, Hoắc (phế lập), bị hai đứa ở nói hở ra ngoài, bèn giết chúng nó để buộc miệng, là một tội.
Mấy lần cố xin thưởng cho hoàng-tử để làm con nuôi, muốn bắt chước lối cũ của Dương Kiên, là hai tội.
Muốn cho con gái chính vị trong cung, không được thỏa chí, nói ra những lời oán vọng, là ba tội.
Thường nói chuyện với Lê văn Duyệt rằng: « Người ta thường nói trời, vua và cha mẹ, người làm con, làm tôi dù có điều bất bình, cũng không dám giận, mà một mình tôi dám giận » là bốn tội.
Lại nói rằng: « Vua cậy có Trịnh hoài Đức, Nguyễn hữu Thuận phúc tâm, chỉ đem độ vài trăm người vào chầu, quát to một tiếng, bọn ấy cũng phải phục xuống đất, rồi ta muốn làm gì ta làm » là năm tội.
Lại nói rằng quốc-tính đổi làm tôn-thất, đều là bọn Hoài Đức a-dua xui-giục, nên đem chém ở trước cửa miếu để chính tội, là sáu tội.
Lại có 10 tội tiếm lạm: 1. Khi y ở Bắc-thành, đầu năm điểm binh, dám lên lầu Ngũ-môn ngồi chính giữa.
Đệ niên thuyền tải ngoài bể, y lấy của riêng mà tải vào thuyền công.
Cùng với Lê văn Duyệt dâng biểu từ chức để bắt bí nhà vua.
Việc sinh sát dữ đoạt, hay tự tiện.
Trái phép, ăn lễ, giàu đến nghìn vạn.
Tấu sớ không hợp phép, có chỉ không cho, mà cứ nhất định nộp lại, có Lê văn Duyệt ngăn đi mới thôi.
Nuôi những cung-nữ tiên triều, không biết kiêng-nể gì.
Nơi công-sảnh tiếm làm gác chuông, gác trống.
Tội án Lê duy Thanh đã thành, lại còn cùng với Lê văn Duyệt cố xin nghị lại.
Điều bổ cơ binh, phủ binh, xin lấy chức quan văn mà thi-hành.
Vậy xin giao cho đình nghị, để chính tội danh làm gương cho kẻ gian trăm đời.
Vua dụ rằng: « Chất, tính vốn sài-lang, nết như ma-quỉ, làm tôi thì bất trung, bất chính, xử việc thì đại ác đại gian, việc nào cũng càn-rỡ, ai là chẳng tức giận, chẳng những là 16 tội mà thôi đâu. Trước kia trẫm nghĩ hắn cùng với Lê văn Duyệt, dẫu mang lòng bất thần, nhưng người ta không chịu theo, thì chắc không dám gây sự. Vả hắn là nhất-phẩm đại-thần; dù có mưu gian mà thần-dân chưa cáo-tố, thì không nỡ bắt tội. Kể đến hắn lại chịu tội minh-tru rồi thì lưới trời tưởng cũng không thoát, cho nên cũng chẳng kể làm gì nữa. Nay đã có người tham-hạch, vậy thì phải trái cho công, đã có triều-đình pháp-luật. Chuẩn cho đình-thần đem 16 điều tội của hắn mà định rõ tội danh, vợ con cũng án-luật mà nghị-xử, duy con gái nào đã xuất giá, cùng là cháu trai còn nhỏ thì tha. »
Đình-thần nghị rằng: Chất, bất pháp bất trung, đại gian đại ác, có 6 tội nên lăng-trì, 8 tội nên trảm, 2 tội nên giảo. Những tội phạm phận, âm-mưu điều bất quỉ, thì khép vào tội bạn-nghịch mà xử lăng-trì. Song y đã chịu tội minh-tru, vậy xin truy-đoạt cáo sắc, bổ áo quan, lục thây, khiêu thủ để thị giới. Còn cáo sắc phong cho cha mẹ y, cũng xin truy đoạt; vợ là Lê thị Sai 黎 氏 差 từng đồng mưu bạn với chồng, nghĩ trảm lập quyết. Lại phát cho các tổng-đốc, tuần-phủ, mỗi nơi một đạo văn-án, để cho đem ý riêng bày-tỏ tâu về, cho công lòng chúng. Các địa phương tâu về, đều xin y đình nghị.
Ngài dụ rằng: « Như vậy đủ rõ lẽ trời ở tại lòng người, công-luận không bao giờ mất. Kẻ gian-thần chứa vạ, muôn miệng cùng một lời, đủ làm án sắt thiên cổ. Vả Lê Chất cùng với Lê văn Duyệt, dựa nhau làm gian, tội ác đầy chứa, nhổ từng cái tóc mà tính cũng không hết, giá thử bổ áo quan giết thây, cũng không là quá. Song lại nghĩ Chất tội cũng như Duyệt, trước kia Duyệt đã không bổ áo quan giết thây, thì nắm xương khô của Chất nay cũng chẳng màng bắt tội. Vậy cho Tổng-đốc Bình-phú Võ xuân Cẩn 武 春 謹 san phẳng mộ của hắn, khắc bia dựng lên trên đề to mấy chữ « Chỗ nầy là nơi Lê Chất phục-pháp » để làm gương cho kẻ gian-tặc muôn-đời. Còn vợ hắn là Lê thị Sai cùng ở một nhà, dự biết mưu bạn-nghịch, xử vào cực hình, cũng là phải, song kẻ đàn bà chẳng cần vội vàng chính pháp. Vậy Lê thị Sai cùng con là Lê Cẩn 黎 瑾, Lê Trương 黎 張, Lê Thường 黎 常, Lê Kỵ 黎 騎, đều cải làm trảm giam hậu. Lại tịch-biên gia-sản, được hơn 12.000 quan tiền, giao tỉnh chứa cả vào kho[3].
[2]▲ Bắc-thuận 北 順, Hồi-lương 回 良, là những người ở Bắc-kỳ bị tội phải đày vào làm lính ở Nam-kỳ.
[3]▲ Đến năm tự-đức nguyên-niên (1847) quan Đông-các Đại-học-sĩ là Võ xuân Cẩn 武 春 瑾 làm sớ tâu xin gia ân cho con cháu Nguyễn văn Thành. Trong bài sớ có lắm câu thảm thiết. Có chỗ nói rằng: « Nguyễn văn Thành, Lê văn Duyệt và Lê Chất đều có lòng theo mây đợi gió, xông pha chỗ mũi tên hòn đạn, thân làm đại-tướng, tước đến Quận-công, sau hoặc vì con dại, hoặc vì cậy công mà làm thành tội.... Dù bọn Nguyễn văn Thành có tội, thì tội đã trị rồi, mà công thì không hỏi đến, chẳng hóa ra đem cái công-lao bách-chiến mà để đến nỗi cái tàn hồn phải bơ-vơ như ma-trơi ngoài đồng, khác nào quỉ Mạc Ngao không ai thờ cúng không? » Vua Dực-tông xem bài sớ ấy lấy làm cảm-động bèn truy-phong cho bọn Nguyễn văn Thành, và cấp phẩm-hàm cho các con cháu.
## Việt Nam sử lược/Quyển II/1971/Phần V/Chương III
CHƯƠNG III
THÁNH-TỔ (1820 - 1840)
(tiếp theo)
Sự giặc-giã
Giặc ở Bắc-kỳ
Phan bá Vành
Lê duy Lương
Nông văn Vân
Giặc ở Nam-kỳ
Án Lê văn Duyệt và Lê Chất
Giặc Tiêm-la
Việc Ai-lao
Việc Chân-lạp
Việc giao-thiệp với những nước ngoại dương
Sự cấm đạo
Vua Thánh-tổ mất
https://vi.wikisource.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_s%E1%BB%AD_l%C6%B0%E1%BB%A3c/Quy%E1%BB%83n_II/1971/Ph%E1%BA%A7n_V/Ch%C6%B0%C6%A1ng_III
---
#7.ÁN LÊ VĂN DUYỆT VÀ LÊ CHẤT.
##Lê văn Duyệt.
Quan quân bình xong giặc Lê văn Khôi rồi vua Thánh-tổ sai phá thành Phiên-an đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống chiếu định truy tội Lê văn Duyệt 黎 文 悅 và tội Lê Chất 黎 質.
Cứ bình tình mà xét, thì chẳng qua là vua Thánh-tổ vốn có ý không ưa hai ông ấy, rồi đình-thần lại nhân đó mà bới việc ra để chiều ý ngài, cho nên thành ra hai cái án thật là không đáng.
Nay cứ theo trong sách « Đại-nam chính-biên liệt-truyện 大 南 正 編 列 傳 » mà chép ra, để mọi người đều được lấy lẽ công-bằng mà phán-đoán.
Từ khi tên Khôi khởi loạn, vua Thánh-tổ thường ban trách Lê văn Duyệt che-chở quân phỉ-đảng, để gây nên hoạn loạn.
Năm ất-vị (1835), ở Đô-sát-viện có Phan bá Đạt 潘 伯 達 dâng sớ nói rằng: Lê văn Duyệt trước ở Gia-định, lấy bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã 雅, làm trảo-nha, lấy binh Bắc-thuận, Hồi-lương[2] làm tâm-phúc. Bọn ấy vốn là quân hung-ác, không phải là người lương-thiện, cho nên Duyệt mất chưa bao lâu mà bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, đã đem quân Hồi-lương, Bắc-thuận cùng với bọn thủ-hạ giữ thành làm phản; lại làm phiến-hoặc nhân tâm, để vạ lây đến các tỉnh Nam-kỳ, mà khó-nhọc đến đại đội quan quân phải tiến tiễu. Năm tỉnh nay dẫu thu-phục rồi, song thành Phiên-an tặc đảng vẫn còn thiết cứ, quan quân tiến tiễu, lắm người thương vong, cái vạ ấy nói sao cho xiết. Nay Duyệt mất rồi, sự-trạng dẫu không có thể tường cứu được, nhưng cứ xem con nuôi là Lê văn Hán 黎 文 漢, trước đây vào ra trong thành, nhập đảng với nghịch Khôi, và đem Bạch xuân Nguyên 白 春 元 làm đuốc để tế từ-đường, thì tâm-tích của Duyệt tưởng không phải xét cũng đã rõ. Nếu không bắt tội e không làm gương được cho đời sau. Vậy xin truy đoạt quan-chức của Duyệt, còn vợ con thì giao về Hình-bộ tra-minh nghiêm-nghị, để tỏ phép nước. »
Vua dụ Nội-các rằng: « Lê văn Duyệt xuất-thân từ kẻ yêm hoạn, vốn là một đứa đầy-tớ trong nhà. Xảy gặp hồi trung-hưng, rồng mây gặp-gỡ, đánh dẹp Tây-sơn, cũng dự có phần công-lao. Đức Hoàng-khảo ta nghĩ tới nó thủa nhỏ sai-khiến ở trong cung, mới đem lòng tin-cậy, nhiều lần cho nó cầm quyền đại-tướng. Không ngờ bọn ấy phần nhiều là quân bất lương, mỗi ngày sinh ra kiêu-căng, manh-tâm phản-nghịch, sinh chí làm càn, ăn-nói hỗn-xược. Vì nó còn e Hoàng-khảo ta thánh minh, cho nên dẫu có lòng gian mà chưa dám lộ. Mà Hoàng-khảo ta đến vãn niên cũng đã biết rõ. Nhưng lại nghĩ hắn dẫu có lòng gian, song thiên-hạ đã yên rồi, thần-dân ai còn theo kẻ thị-hoạn đó, thì chắc hắn cũng chẳng làm gì được. Đến khi trẫm lên ngôi, cựu-thần không còn mấy, vả lại nghĩ nó tuổi đã già, cho nên cũng tạm khoan-dung, hoặc là hắn biết nghĩ mà chừa đi, để cho toàn vẹn công-danh, thì cũng là việc hay. Không ngờ kẻ kia lòng như rắn-rết, tính tựa sài-lang, càng ngày càng sinh kiêu-ngạo, dám nói xấu Triều đình trước mặt chúng nhân, mà khoe cái tài riêng của mình. Năm trước các quân tù phạm xứ Thanh, Nghệ cùng là những kẻ hung-ác, hắn đều chiêu-dụ ra thú, tâu xin ghép vào trướng-hạ để làm nanh-vuốt. Lê văn Khôi là quân vô-lại, thì tiến-cử đến chức vệ-úy, theo dưới cờ hắn, để làm phúc tâm. Thổ-hào như bọn Dương văn Nhã 楊 文 雅, Đặng vĩnh Ưng 鄧 永 膺 thì hắn ngầm ngấm vời dùng; nhân thích như bọn Võ vĩnh Tiền 武 永 錢, Võ vĩnh Lộc 武 永 祿 thì hắn âm-thầm lập đảng. Những kẻ tù phạm Bắc-kỳ phát phối vào đó, hắn cho ở trong thành, rồi tha cho làm lính; lại kén lấy những voi khỏe đem ra nơi đồn thú; vét lấy những thuyền bè khí-giới trong 6 tỉnh Nam-kỳ chứa vào thành Phiên-an; rồi lại nghe tên Trần nhật Vĩnh 陳 日 永 mà hút hết cao huyết của dân Nam-kỳ. Đắp thành Phiên-an, tiếm bằng Kinh-thành, hào thì đào sâu hơn. Nếu bảo thành cao hào sâu để phòng giặc Tiêm, thì đường bể phải phòng ở Hà-tiên, đường bộ phải phòng ở Chân-lạp, có lẽ nào bỏ bốn tỉnh An, Hà, Long, Tường không giữ, mà lại giữ ở Phiên-an hay sao? Thế là rõ rằng phòng Triều-đình, chứ không phải phòng ngoại hoạn. Cứ suy điều đó, thì ruột-gan hắn, dẫu người đi đường cũng biết, ai không căm-tức, chỉ giận vì ai không chịu nói rõ cho Triều-đình biết sớm mà thôi. Đến nỗi ngày nay như nuôi cái nhọt bọc để nên đau, mỗi ngày mầm vạ một lớn, cho nên kẻ quyền-yêm dẫu chịu tội minh-tru, mà bọn nhỏ-nhặt còn dám giữ thành làm phản. Ví dù quan cai-trị không hèn-đốn như Nguyễn văn Quế 阮 文 桂, tham-tàn như Bạch xuân Nguyên 白 春 元, thì chúng nó có ngày làm phản chứ không sao khỏi được. Vì bọn tiêu-hạ hắn toàn là quân hung-đồ, quen làm những việc bất-thiện. Chúng nó đã quen thấy hắn dối chúa, lấn trên, đều bắt-chước hắn. Thậm chí hắn nói với người ta rằng hắn vào trấn Gia-định, vốn là phong vương để giữ lấy đất, chứ không phải như các tổng-trấn tầm-thường khác. Mả của cha hắn, em hắn, cũng tiếm gọi là lăng; hoặc dám đối với người ta, tự xưng là Cô, để cho bộ-hạ tập quen thành thói, chỉ biết có Lê văn Duyệt mà không biết đến Triều-đình. Thầy Hữu-tử 有 子 nói rằng: « Không ưa phạm người trên mà ưa làm loạn, chưa có lẽ ấy bao giờ ». Vậy thì ưa phạm người trên và không ưa làm loạn, cũng chưa có lẽ thế bao giờ. Mối vạ gây nên đã lâu, lẽ nào mà muốn cho bọn tiêu-hạ không làm phản được? Vậy nên hắn chết chưa bao lâu, mà bọn Lê văn Khôi đã khởi loạn, cháu hắn cũng đồng tình tạo phản, để cho cả bọn bộ-khúc của hắn đều theo giặc cả, không một tên nào trốn đi, rồi nó kết tử-đảng, cậy có thành cao, hào sâu, lương-thực như núi, khí-giới tinh-nhuệ, đồ-đảng lại nhiều, kháng-cự lại vương-sư, chầy đến 3 năm trời, nhiều lần mở đường sống cho nó, mà chúng nó không biết hối tội đầu thành, đến nỗi binh dân gan-óc lầy đường, nói ra đau-xót đến gốc-nguồn thì tội hắn kể từng cái tóc cũng không xuể. Nay hãy đem những công-việc của hắn làm, rõ-ràng ở tai mắt người ta, để gây nên hoạn-loạn, hiểu-thị cho ai nấy đều biết. Còn như Lê văn Duyệt và con-cháu hắn nên xử tội thế nào, thì giao cho đình-thần nghị xử. »
Vài hôm sau, nội-các là Hà Quyền 何 權, Nguyễn tri Phương 阮 知 方, Hoàng Quýnh 黄 炯 tâu rằng: Duyệt che-chở cho quân phỉ loạn, gây nên sự biến, cái tai vạ tích lại đã lâu. Nay xét những giấy-má của y ngày trước, rõ ra hình-tích bội-nghịch, có 6 điều:
1. Năm Minh-mệnh thứ 4, y tự tiện sai người riêng là bọn Phan Đạt 潘 達 giả danh đi thám, đi thuyền sang nước Diến-điện. Trong thư chắc có giao-thông. Cứ lấy nghĩa « làm tôi không có phép được giao-thông với nước ngoài », thì tâm-sự của y đã rõ, ấy là một tội.
2. Đến khi sứ-thần nước Diến-điện đến thành, mới tâu vào Triều-đình. Đã có chỉ-dụ nói việc đó quan-hệ đến đại nghĩa, không nên khinh-thường, nghe lời ngoài mà bỏ tình hòa-hiếu, gây việc cừu-thù. Vậy mà y cố xin dung-nạp. May mà Triều-đình trả đồ cống-vật cho sứ Diến-điện về nước, thì danh-nghĩa nước lớn ta mới tỏ giải ra thiên-hạ. Thế là y chẳng những mưu việc nước không ra gì, mà lại cố giữ lấy ý riêng để che điều lỗi, ấy là hai tội.
3. Năm Minh-mệnh thứ 7, tàu bạt phong nước Anh-cát-lợi đậu vào cửa Bình-thuận, đã có chỉ sai sở-tại hộ tống, mà y cố xin đưa vào Gia-định, và nói rằng: « Quan trấn kiềm-thúc, không bằng thần có quyền, khiến cho kẻ kia sợ tướng-lệnh và biết binh oai ». Hai chữ « có quyền » từ xưa vẫn lấy làm răn, mà y dám ngất-ngưởng tự nhận, kiêu-tứ dường nào, ấy là ba tội.
4. Năm Minh-mệnh thứ 4, thị-vệ là Trần văn Tình 陳 文 情 nhân việc công-sai ở Gia-định về, có tâu việc Trần nhật Vĩnh làm riêng phố ngói, mua trộm các món. Y nghe chuyện làm vậy, năm sau vào chầu, cố xin bắt Trần văn Tình giao cho y để y chém, nếu không giao thì y xin trả chức tổng-trấn; rồi y xin từ chức thực. Có ý yêu quân như vậy, tội gì còn to bằng tội ấy. Vả y xin giết một Trần văn Tình, thế là bắt người ta phải khóa lưỡi, không ai dám nói nữa, rất là dụng tâm nham-hiểm, ấy là bốn tội.
5. Trần nhật Vĩnh đã có chỉ bổ thụ ký-lục Vĩnh-thanh, mà y cố xin lưu ở lại trong thành. Lê đại Cương 黎 大 綱 có chỉ tuyên-triệu, mà y cố xin lưu lại làm việc phủ Lạc-hóa, đều là có ý vi chiếu. Trong tập tâu của y lại nói rằng: « Chuẩn cho thần cầu xin việc ấy, thì hầu có ích cho việc ngoài biên-cương »; lại ở trong tập tâu xin chi-bổng cho bọn thơ-lại, cơ, đội, các vệ, có câu rằng: « Lão-thần xa ở ngoài biên-khổn, chỉ e Triều-đình tin dùng không được vững-bền ». Trong lời-lẽ ấy đều là không kính, ấy là 5 tội.
6. Năm Minh-mệnh thứ 6, y tâu xin tăng thọ cho Lê Chất, có nói rằng: « Ấy là vị thánh-dược khởi tử hồi sinh, tiếc gì mà không làm ». Y là chức biên-khổn dám kết đảng tư tình như thế, rất trái với đạo làm tôi, ấy là 6 tội. Vả lại nghe y bình nhật thường khoe chuyện với người ta rằng: y xin được quẻ thẻ có 4 câu thơ:
Tá Hán tranh tiên chư Hán-tướng,
Phù Chu ninh hậu thập Chu-thần.
Tha niên tái ngộ Trần-kiều sự,
Nhất đán hoàng-bào bức thử thân.
DỊCH NÔM
Giúp Hán há thua cùng tướng Hán,
Phò Chu nào kém bọn tôi Chu.
Trần-kiều nếu gặp cơn binh biến,
Mảnh áo hoàng-bào dễ ép nhau!
Giá y không phải là người sẵn có bụng bất trung, thì không khi nào dám khoe bài thơ ấy với người ta. Bởi vậy bọn tiêu-hạ tập quen thành thói, cho nên thây y chưa lạnh mà đã có việc này. Vậy xin giao cả lời tâu này cho đình-thần kết án để chính tội. Vua ưng cho.
Đến khi nghị án xong, trích ra các lời nói, việc làm, bội nghịch, có 7 tội nên trảm:
1. Sai người đi riêng sang Diến-điện, âm kết ngoại-giao.
2. Xin giao tàu Anh-cát-lợi đến thành, để tỏ có quyền.
3. Xin giết thị-vệ là Trần văn Tình, để khóa miệng người ta.
4. Kháng sớ xin lưu quan-viên bổ đi chỗ khác.
5. Lập đảng mà xin tăng thọ cho Lê Chất.
6. Giấu chứa giấy ngự bảo.
7. Mộ cha, tiếm gọi là lăng, đối với người ta, tự xưng là cô.
Có 2 tội nên giảo: 1. cố xin dung-nạp Diến-điện để che-chở cái lỗi của mình; 2. nói chuyện với người ta xin được quẻ thẻ có câu thơ hoàng-bào.
Một tội nên phát quân: tự tiện sai biền binh tu-tạo tàu-thuyền.
Sự biến Phiên-an, y thực là đầu vạ nên chiếu theo luật mưu-phản, khép vào tội lăng-trì; song y đã chịu minh-tru, vậy xin truy-đoạt cáo sắc, bỏ quan-quách giết thây, để tỏ gương răn cho người khác. Còn như tằng-tổ, tổ-phụ của y được phong tặng cáo sắc, thì xin truy-đoạt cả; tiên phần có tiếm dụng trái phép nào thì tước-hủy đi; con, cháu, vợ cả, vợ lẽ, đều phân-biệt nghị tội; tài-sản thì tịch-biên hết.
Án ấy đệ lên. Những tội nguyên nghị trảm quyết đổi làm giam-hậu, con cháu từ 15 tuổi trở xuống, tạm hãy nghiêm cấm; trẻ thơ-ấu chưa biết gì thì tha không bắt; ba họ phải phát nô cũng đều tha; nguyên nghĩ lục thì cũng thôi.
Lại sai Hình-bộ sao bản văn án phát cho tổng-đốc, tuần-phủ các tỉnh, cho cứ ý-kiến riêng mà tâu về. Hộ-phủ Lạng-bình là Trần huy Phác 陳 輝 樸 xin điều phép tội trảm quyết. Hộ-phủ Quảng-yên là Lê dục Đức 黎 育 德 xin người nào từ 16 tuổi trở lên đều chém, còn thì đều y như đình nghị. Tổng-đốc Bình-phú là Võ xuân Cẩn 武 春 謹, Tổng-đốc Ninh-thái là Hoàng văn Trạm 黄 文 站 cũng đều xin y đình nghị. Lại nói kèm một câu rằng: hoặc nên lấy công bù tội châm-chước ít nhiều thì tự Thiên-ân.
Dụ rằng : « Xem vậy thì đủ biết lẽ trời không sai, mà công đạo ở lòng người không ai giấu được. Kẻ quyền-gian kia gây vạ, thiên-hạ ai ai cũng căm-tức, muôn miệng cùng lời, đủ tỏ cái án sắt nghìn xưa. Tội Lê văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bổ quan-quách mà giết thây, cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu, và đã truy-đoạt quan tước, xương khô trong mả, không bõ gia hình. Vậy cho tổng-đốc Gia-định đến chỗ mả hắn, san làm đất phẳng và khắc đá dựng bia ở trên viết to những chữ « Chỗ này là nơi quyền-yêm Lê văn Duyệt phục pháp », để chính tội danh cho kẻ đã chết, mà tỏ phép nước về đời sau, làm gương cho kẻ quyền-gian muôn đời.
Không những Lê văn Duyệt là họa thủ tội khôi, mà tên cháu y là Lê văn Hán cũng giao thông với giặc, thì thân-thuộc phải tội, trong luật đã có điều nói rõ rồi. Song nghĩ nó chẳng qua cuồng-dại một lúc, qua lại với giặc mà thôi, sánh với kẻ trước sau theo giặc kháng-cự quan quân, hơi có khác nhau. Và đã xử cực hình, cũng đủ tỏ phép nước rồi. Những kẻ thân-thuộc khác, khép tội trảm giam hậu, cũng đủ cho nó phục tội. Lời dụ này chuẩn lục-tống phát cho mỗi tỉnh một đạo, để cho ai nấy đều biết Triều-đình xử rất công, rõ-ràng cái cân ba thước mà nghiêm như rìu búa nghìn thu. »
##Án Lê Chất.
Án Lê văn Duyệt phát ra năm trước thì năm sau có quan Lại-bộ tả thị-lang là Lê bá Tú 黎 伯 秀 truy tham những tội bất thần của Lê Chất 黎 質, có 6 tội nên chết:
1. Chất cùng Duyệt toan mưu làm việc Y, Hoắc (phế lập), bị hai đứa ở nói hở ra ngoài, bèn giết chúng nó để buộc miệng, là một tội.
2. Mấy lần cố xin thưởng cho hoàng-tử để làm con nuôi, muốn bắt chước lối cũ của Dương Kiên, là hai tội.
3. Muốn cho con gái chính vị trong cung, không được thỏa chí, nói ra những lời oán vọng, là ba tội.
4. Thường nói chuyện với Lê văn Duyệt rằng: « Người ta thường nói trời, vua và cha mẹ, người làm con, làm tôi dù có điều bất bình, cũng không dám giận, mà một mình tôi dám giận » là bốn tội.
5. Lại nói rằng: « Vua cậy có Trịnh hoài Đức, Nguyễn hữu Thuận phúc tâm, chỉ đem độ vài trăm người vào chầu, quát to một tiếng, bọn ấy cũng phải phục xuống đất, rồi ta muốn làm gì ta làm » là năm tội.
6. Lại nói rằng quốc-tính đổi làm tôn-thất, đều là bọn Hoài Đức a-dua xui-giục, nên đem chém ở trước cửa miếu để chính tội, là sáu tội.
Lại có 10 tội tiếm lạm: 1. Khi y ở Bắc-thành, đầu năm điểm binh, dám lên lầu Ngũ-môn ngồi chính giữa.
2. Đệ niên thuyền tải ngoài bể, y lấy của riêng mà tải vào thuyền công.
3. Cùng với Lê văn Duyệt dâng biểu từ chức để bắt bí nhà vua.
4. Việc sinh sát dữ đoạt, hay tự tiện.
5. Trái phép, ăn lễ, giàu đến nghìn vạn.
6. Tấu sớ không hợp phép, có chỉ không cho, mà cứ nhất định nộp lại, có Lê văn Duyệt ngăn đi mới thôi.
7. Nuôi những cung-nữ tiên triều, không biết kiêng-nể gì.
8. Nơi công-sảnh tiếm làm gác chuông, gác trống.
9. Tội án Lê duy Thanh đã thành, lại còn cùng với Lê văn Duyệt cố xin nghị lại.
10. Điều bổ cơ binh, phủ binh, xin lấy chức quan văn mà thi-hành.
Vậy xin giao cho đình nghị, để chính tội danh làm gương cho kẻ gian trăm đời.
Vua dụ rằng: « Chất, tính vốn sài-lang, nết như ma-quỉ, làm tôi thì bất trung, bất chính, xử việc thì đại ác đại gian, việc nào cũng càn-rỡ, ai là chẳng tức giận, chẳng những là 16 tội mà thôi đâu. Trước kia trẫm nghĩ hắn cùng với Lê văn Duyệt, dẫu mang lòng bất thần, nhưng người ta không chịu theo, thì chắc không dám gây sự. Vả hắn là nhất-phẩm đại-thần; dù có mưu gian mà thần-dân chưa cáo-tố, thì không nỡ bắt tội. Kể đến hắn lại chịu tội minh-tru rồi thì lưới trời tưởng cũng không thoát, cho nên cũng chẳng kể làm gì nữa. Nay đã có người tham-hạch, vậy thì phải trái cho công, đã có triều-đình pháp-luật. Chuẩn cho đình-thần đem 16 điều tội của hắn mà định rõ tội danh, vợ con cũng án-luật mà nghị-xử, duy con gái nào đã xuất giá, cùng là cháu trai còn nhỏ thì tha. »
Đình-thần nghị rằng: Chất, bất pháp bất trung, đại gian đại ác, có 6 tội nên lăng-trì, 8 tội nên trảm, 2 tội nên giảo. Những tội phạm phận, âm-mưu điều bất quỉ, thì khép vào tội bạn-nghịch mà xử lăng-trì. Song y đã chịu tội minh-tru, vậy xin truy-đoạt cáo sắc, bổ áo quan, lục thây, khiêu thủ để thị giới. Còn cáo sắc phong cho cha mẹ y, cũng xin truy đoạt; vợ là Lê thị Sai 黎 氏 差 từng đồng mưu bạn với chồng, nghĩ trảm lập quyết. Lại phát cho các tổng-đốc, tuần-phủ, mỗi nơi một đạo văn-án, để cho đem ý riêng bày-tỏ tâu về, cho công lòng chúng. Các địa phương tâu về, đều xin y đình nghị.
Ngài dụ rằng: « Như vậy đủ rõ lẽ trời ở tại lòng người, công-luận không bao giờ mất. Kẻ gian-thần chứa vạ, muôn miệng cùng một lời, đủ làm án sắt thiên cổ. Vả Lê Chất cùng với Lê văn Duyệt, dựa nhau làm gian, tội ác đầy chứa, nhổ từng cái tóc mà tính cũng không hết, giá thử bổ áo quan giết thây, cũng không là quá. Song lại nghĩ Chất tội cũng như Duyệt, trước kia Duyệt đã không bổ áo quan giết thây, thì nắm xương khô của Chất nay cũng chẳng màng bắt tội. Vậy cho Tổng-đốc Bình-phú Võ xuân Cẩn 武 春 謹 san phẳng mộ của hắn, khắc bia dựng lên trên đề to mấy chữ « Chỗ nầy là nơi Lê Chất phục-pháp » để làm gương cho kẻ gian-tặc muôn-đời. Còn vợ hắn là Lê thị Sai cùng ở một nhà, dự biết mưu bạn-nghịch, xử vào cực hình, cũng là phải, song kẻ đàn bà chẳng cần vội vàng chính pháp. Vậy Lê thị Sai cùng con là Lê Cẩn 黎 瑾, Lê Trương 黎 張, Lê Thường 黎 常, Lê Kỵ 黎 騎, đều cải làm trảm giam hậu. Lại tịch-biên gia-sản, được hơn 12.000 quan tiền, giao tỉnh chứa cả vào kho[3].
---
[2]▲ Bắc-thuận 北 順, Hồi-lương 回 良, là những người ở Bắc-kỳ bị tội phải đày vào làm lính ở Nam-kỳ.
[3]▲ Đến năm tự-đức nguyên-niên (1847) quan Đông-các Đại-học-sĩ là Võ xuân Cẩn 武 春 瑾 làm sớ tâu xin gia ân cho con cháu Nguyễn văn Thành. Trong bài sớ có lắm câu thảm thiết. Có chỗ nói rằng: « Nguyễn văn Thành, Lê văn Duyệt và Lê Chất đều có lòng theo mây đợi gió, xông pha chỗ mũi tên hòn đạn, thân làm đại-tướng, tước đến Quận-công, sau hoặc vì con dại, hoặc vì cậy công mà làm thành tội.... Dù bọn Nguyễn văn Thành có tội, thì tội đã trị rồi, mà công thì không hỏi đến, chẳng hóa ra đem cái công-lao bách-chiến mà để đến nỗi cái tàn hồn phải bơ-vơ như ma-trơi ngoài đồng, khác nào quỉ Mạc Ngao không ai thờ cúng không? » Vua Dực-tông xem bài sớ ấy lấy làm cảm-động bèn truy-phong cho bọn Nguyễn văn Thành, và cấp phẩm-hàm cho các con cháu.
edited Aug 2 lúc 11:49 pm