Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (toàn tập).
Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2007.
Tập 03
Chính biên
ĐỆ NHỊ KỶ - QUYỂN LXIV
Thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế
Canh dần, năm Minh Mệnh thứ 11 [1830] (Thanh Đạo Quang năm thứ 10), mùa xuân, tháng giêng
Tả thị lang Hộ bộ Hoàng Quýnh đem việc thành thần Gia Định tư rằng vật giá đắt vọt lên, nhà nước mua không đủ, vào chầu tâu trước vua, nhân nói việc đặt mua rất không tiện: “Thần trước hiệu lực ở Quảng Bình, tự mình thấy rõ tệ ấy. Tức như da trâu và lưới rách, để đấy là đồ bỏ đi, bán cho quan thì được giá tốt, thế mà trong dân đến nỗi có kẻ giết trâu xé lưới để cầu khỏi việc đòi bắt. Phàm triều đình lập pháp là vốn muốn nhân việc gia ân để giúp dân, mà một khi quan lại không thể đức ý ấy thì da trâu lưới rách còn sinh ra tệ, huống là có món lại quá thế nữa”.
Vua nói rằng: “Những vật nhà nước cần dùng không thể thiếu được. Những sản vật các địa phương sản xuất, không mua ở dân thì lấy đâu cho đủ dùng. Chỉ sợ hữu ty không biết giữ lòng công theo pháp luật mà thôi. Như năm trước mua đậu khấu mỗi 100 cân trả đến trên dưới 150 lạng bạc, thế mà bảo hộ Chân Lạp là Nguyễn Văn Thuỵ cùng phạm viên là Trần Nhật Vĩnh chỉ trả 50, 60 lạng, lại còn nói tự xuất của nhà để cấp thêm. Bọn ấy đã mưu gian cho đầy túi, lại đổ lỗi cho bề trên, thì dân mọn ở biên thuỳ còn trông mong gì nữa. Trẫm đã từng mạt sát mối tệ, đinh ninh răn bảo, không biết Hộ tào ngày nay là Ngô Bá Nhân đã biết soi gương ấy hay chưa !”. Quýnh vốn là người ngay thẳng, gặp việc dám nói, vua cũng dung nạp.
chính biên
đệ nhị kỷ - Quyển LXXx
Thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế
Nhâm thìn, năm Minh Mệnh thứ 13 [1832], mùa hạ, tháng 5.
Truy luận tội Nguyễn Văn Thuỵ nguyên Bảo hộ Chân Lập.
Trước đây, Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định, sai Hình tào Vũ Du đi dò xét tình trạng dân Phiên ((1) Phiên : đây là dùng chỉ Chân Lạp.1). Du về nói dò được việc Nguyễn Văn Thuỵ, khi lĩnh chức Bảo hộ, ngày thường bắt dân Phiên đi lấy gỗ táu đem nộp mà không cấp tiền và gạo, lại bắt dân Phiên làm việc tư, sửa đắp đường cái, để đưa đám chôn cất vợ. Duyệt đem hết tình trạng ấy tâu lên. Vua ra lệnh tịch thu gia sản và giao xuống bộ Hình nghiêm ngặt nghị tội, rồi lại sai đình thần bàn xét lại. Đến đây bản án dâng lên. Vua dụ rằng : “Nguyễn Văn Thuỵ đã được uỷ cho trọng trách bảo vệ biên cương, thế mà không biết tuyên dương đức hoá, vỗ yên dân chúng ngoài biên, lại dám sinh sự nhiễu dân, gây nhiều suối tệ ! Huống chi Thuỵ lại cùng kẻ bị tội trảm quyết là Trần Nhật Vĩnh dối trá giấu giếm mọi việc dựa nhau làm điều gian, tội ác rất nặng, nếu con người ấy còn sống thì ta cũng cứ giữ lòng chí công làm đúng hình pháp, chém đầu để bêu cho mọi người biết. Nay Thuỵ đã chết rồi, lại nghĩ ngày trước hãy có chút công lao ở Vọng Các, lòng Trẫm không nỡ, vậy gia ơn chỉ truy giáng Thuỵ xuống hàm Chánh ngũ phẩm và đoạt lại chức tập ấm của con hắn, duy cáo sắc tặng phong cha mẹ thì được miễn theo. Còn tang vật mà Thuỵ đã sách nhiễu dân Phiên thì phải truy ra rồi lấy gia sản kẻ phạm tội ấy mà truy cấp cho dân Phiên”.
Nhân đó vua sai Lang trung bộ Công là Lê Hựu đem sắc thư sang nước Chân Lạp, tuyên dụ vua Phiên, nói cho biết rằng, đối với việc viên Bảo hộ Nguyễn Văn Thuỵ quấy nhiễu dân, triều đình đã trị tội rồi, vương nên kính cẩn giữ lễ phiên phục, chớ bận lòng vì một viên chức hư hỏng.
Vua Phiên dâng biểu nói : “Năm trước có việc đi lấy gỗ táu đem nộp thì dân Phiên đã lĩnh tiền và gạo của nhà nước cấp rồi. Vậy tha thiết xin đình chỉ việc cấp cho nữa”. Vua dụ bộ Lễ rằng : “Nước Chân Lạp đứng hàng phiên thần, việc ta xếp đặt sự nghi có quan hệ đến quốc thể không nhỏ. Vũ Du vâng mệnh đi dò la, không xét đưa nguyên uỷ đích xác, đột nhiên về báo rất là sai lầm, vậy trước hãy cách chức ngay, rồi giao bộ Hình bàn xử. Nguyễn Văn Thuỵ dẫu không can vào việc này, nhưng sai dân Phiên làm việc riêng, sửa mộ đắp đường, cũng là đáng tội, vậy cứ chuẩn y nguyên án. Vả Vũ Du khi đi dò xét, không đúng sự thực thì phải giao ngay bàn xét để trừng phạt. Còn các điều mà Nguyễn Văn Thuỵ đã phạm, điều gì không có thì phải vì hắn mà làm cho sáng tỏ ra, còn điều gì có thực thì cũng không coi nhẹ mà tha được, đó là ta đã cân nhắc nặng nhẹ, giữ lòng rất công, vốn không có ý làm hơn làm kém ở trong đó. Vậy khi đưa tờ dụ này cho thành Gia Định, rồi sao chép ra, cấp cho con Nguyễn Văn Thuỵ được biết”. Sau đó, bộ Hình nghị xử Vũ Du vào tội đồ, nhưng vua đặc cách cho cách chức, phát đi Cam Lộ gắng sức làm việc để chuộc tội.
Trần Thái Tín, Lang trung bộ Binh biện lý công việc biên cương ở thành Nam Vang, cậy thế, mưu toan việc riêng bị giáng cách chức.
Tập 04
Chính biên
đệ nhị kỷ - quyển clxii
thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế
ất Mùi, Minh Mệnh năm thứ 16 [[1835], mùa đông, tháng 11.
Truy luận về tội của nguyên Tổng trấn thành Gia Định là Lê Văn Duyệt.
Trước đây, Tả phó đô ngự sử viện Đô sát là Phan Bá Đạt, Khoa đạo Nguyễn Văn và Vũ Danh Thạc tâu nói : “Lê Văn Duyệt khi ở Gia Định, dùng lũ nghịch Khôi, nghịch Nhã làm nanh vuốt, lấy đội Hồi lương, đội Bắc thuận làm tâm Phước. Lũ chúng vốn chẳng phải loài lương thiện, tính ác khó thuần. Cho nên Duyệt chết chưa bao lâu, nghịch Nhã đem ngay đội Hồi lương, Bắc thuận cùng lũ trọi gà, phường hạt ở dưới cờ, giữ thành làm phản, nhân đó lòng người bị mê hoặc, vạ lây đến các tỉnh Nam Kỳ, làm phiền đại đội quan quân phải tiến đánh. Năm tỉnh thành tuy đã lấy lại được, nhưng thành Phiên An là chỗ Duyệt ở trước, đảng giặc hãy còn chiếm giữ, do đấy những của cải ở trong thành đều bị mất sạch. Quan quân luôn năm đánh dẹp, có người bị thương và bị chết ! Tai vạ đó không sao nói hết ! Nay Duyệt đã chết, dẫu không thể xét kỹ được sự trạng, nhưng xem những việc như tên con nuôi là Lê Văn Hán trước đây ra vào trong thành, liên lạc với nghịch Khôi và khi đảng nghịch đến nhà thờ Lê Văn Duyệt, toan đem Bạch Xuân Nguyên bó làm đèn đuốc để tế Duyệt, thì chẳng việc kín nào không lộ, chẳng việc nhỏ nào không rõ. Thế thì tâm tích của Duyệt chẳng cần hỏi cũng biết được. Nếu chẳng định rõ tội danh thì e không lấy gì để răn người sau này. Vậy xin truy đoạt quan chức của Duyệt, còn vợ con Duyệt thì giao bộ Hình tra rõ, nghiêm xử để làm sáng tỏ phép nước”.
Vua dụ Nội các rằng : “Lê Văn Duyệt do hoạn quan xuất thân, vốn là đầy tớ trong nhà, nhân buổi trung hưng rồng mây gặp hội, cũng dự có công lao trong cuộc dẹp yên Tây Sơn. Đức Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta, nghĩ hắn khi tuổi trẻ, hầu hạ ở trong cung, tin như ruột thịt nên nhiều lần đã trao cho cờ tiết và phủ việt. Chẳng ngờ lũ ấy phần nhiều không phải loài lương thiện, ngày càng rông rỡ, dần dần có ý không chịu làm tôi, rông dài làm càn nói năng ngông cuồng, bội nghịch, chỉ vì lòng còn sợ đức thánh minh, lại vì còn nhiều người chen vai thích cánh, nên Duyệt dù có lòng gian, cũng chưa dám lộ. Hoàng khảo ta khi có tuổi cũng đã dần dần biết thóp, nhưng lại nghĩ tên đầy tớ ấy tuy mang lòng làm việc trái phép, nhưng thiên hạ đã đại định, tôi con ai chịu theo kẻ thân tàn sau khi đã thiến, chắc hắn không làm gì được ! Đối đãi tuy ngày nhạt dần, nhưng cứ chịu đựng rồi bỏ qua. Đến khi ta nối ngôi, cũng cho rằng các bầy tôi cũ không còn mấy, mà hắn lại đã già rồi, nên hãy cứ đối đãi tử tế, hoặc giả hắn biết ngầm đổi thói xấu, lặng theo đức hoá, để công thần được bảo toàn, cũng là một việc rất tốt. Chẳng ngờ hắn bụng nghĩ như rắn, rết, tính tựa hổ lang, ngông cuồng càng lắm, càn rỡ ngày thêm, thường lớn tiếng nói với mọi người : bới vạch điều thiếu sót của triều đình, khoe khoang tài giỏi của mình, phỉ báng hết lời, khiến người chẳng nỡ nghe nữa !
Năm trước, trong tù phạm Thanh - Nghệ, phàm những kẻ nào hung dữ, hắn đều chiêu dụ ra thú, tâu cho lệ thuộc dưới cờ để làm nanh vuốt. Lê Văn Khôi, là đồ vô lại, được hắn tiến cử làm quan đến Phó vệ uý, theo ở dưới cờ để làm tâm Phước. Đối với thổ hào như bọn Dương Văn Nhã và Đặng Vĩnh Ưng, hắn ngầm cho tìm đến ; đối với chỗ thông gia bên ngoài như lũ Vũ Vĩnh Tiên và Vũ Vĩnh Lộc, hắn ngầm gây làm bè đảng. Đối với những tù phạm ở Bắc Kỳ phát phối đến đó, hắn cho ở cả trong thành, thả cho làm lính. Lại ngầm kén lấy những voi chiến, khoẻ và dữ để đem theo đến chỗ đồn thú. Hắn vơ vét tất cả thuyền bè, súng ống, khí giới của Lục tỉnh Nam Kỳ để cả ở thành Phiên An. Lại riêng nghe những lời xảo trá của Trần Nhật Vĩnh, hút máu rán mỡ hầu hết nhân dân sáu tỉnh Nam Kỳ. Duyệt dùng kiệt sức quân và dân, đắp cao thành Phiên An, lộng hành cũng như thành ở kinh đô, mà hào lại có phần sâu hơn. Nếu bảo đắp thành cao, đào hào sâu để chống giặc Xiêm, thì đường biển nên phòng giữ ở Hà Tiên, đường bộ nên phòng giữ ở Chân Lạp, há có lẽ nào lại bỏ bốn tỉnh An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long, Định Tường mà chỉ giữ ở Phiên An hay sao ? Rõ ràng thế là Duyệt cốt phòng ngừa triều đình, chứ chẳng phải phòng ngừa giặc ngoài. Suy đó ra, thì tâm địa hắn người qua đường cũng đều biết rõ. Người ta đều né mắt, đau lòng chỉ giận rằng chẳng chịu vì triều đình mà sớm phát giác ra đó thôi.
“Nuôi ong tay áo, mối vạ ngày một to, cho nên tên quan hoạn lộng quyền đó tuy đã phải chịu tội âm, nhưng lũ lau nhau còn giữ được thành để làm phản. Nếu không có bọn quan tứ mục hèn kém ngu tối như Nguyễn Văn Quế, tham lam tàn bạo như Bạch Xuân Nguyên, mà lũ hung tợn dưới cờ của hắn hay làm những việc bất lương, quen thấy những điều dối vua, lấn trên, thì cũng đều muốn đua hơn cả. Thậm chí nói với người ta rằng : “Duyệt đi trấn thành Gia Định, vốn là phong vương để giữ đất ấy, chứ chẳng như các tổng trấn tầm thường khác. Lại nữa, mộ cha và mộ em của Duyệt đều tiếm gọi là “lăng” ; có khi nói với người khác hắn xưng là “cô” đến nỗi làm cho bộ hạ hắn tập lâu thành quen, chỉ biết có Lê Văn Duyệt chứ không hề biết có triều đình ! Hữu tử có nói : “Chưa hề có kẻ nào không muốn phạm thượng mà muốn làm loạn”. Như thế thì cũng chưa hề có kẻ nào muốn phạm thượng mà không muốn làm loạn”. Mầm loạn có đã lâu ngày, thì muốn những kẻ dưới cờ hắn không làm phản sao được ?
“Bởi thế, Duyệt chết chưa bao lâu, lũ thủ nghịch Lê Văn Khôi đã đem nhau giết quan, giữ thành, làm phản, nói phao lên là báo thù cho Duyệt. Cháu ruột Duyệt là Lê Văn Hán cũng cùng làm phản ; đến cả đồng bộc và bộ hạ đều theo giặc làm loạn, không một tên nào đi trốn cả. Chúng cố kết nhau làm tử đảng, cậy có thành cao, hào sâu, lương thực tích trữ như núi, khí giới tinh nhuệ, đồ đảng đông nhiều, chống cự quân nhà vua lâu đến 3 năm. Nhiều lần đã mở cho đường sống, chúng vẫn không hối tội ra thú để đến quân dân gan óc lầy đất, nói đến đau lòng ! Xét đến nguyên do thì Lê Văn Duyệt mỗi cái tóc là một cái tội ! Huống chi, ngoài đó ra, Duyệt còn ấp ủ lòng ác, nói năng bội nghịch, còn có những lời mà ta chưa nỡ vội nói. Nay trước hãy đem những hành vi của hắn đã được người ta tai nghe mắt thấy và những cớ do hắn gây nên hoạ loạn mà biểu thị rõ ràng. Vậy cái chỗ Lê Văn Duyệt và con cháu hắn đáng nên xử tội thế nào, giao cho đình thần bàn định nghĩ xử, tâu lên sẽ xuống Chỉ cho làm”.
Bọn Nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh lại tâu nói : “Lê Văn Duyệt nuôi dưỡng loài phỉ gây thành biến loạn, ấp ủ hoạ thai đã lâu, chẳng phải là mới một ngày. Xét những tấn sở của Duyệt từ trước tỏ ra hình tích bội nghịch có đến 6 điều.
Năm Minh Mệnh thứ 4, Duyệt tự tiện sai bọn Phan Đồng Đạt là người của hắn, mượn tiếng đi dò thám, đáp thuyền riêng sang Diến Điện ; trong việc này văn thư hắn có sự giao thông chiêu nộp. Xét theo cái nghĩa người làm tôi không được ngoại giao riêng, thì ý nghĩ và việc làm của Duyệt ra sao còn phải bàn gì nữa ! Đó là một tội.
Đến khi sứ Diến Điện đến thành Gia Định, bấy giờ mới đem việc tâu lên. Việc đã được dụ bảo phải xử đoán theo đại nghĩa, không nên nhẹ dạ nghe người ngoài nói mà bỏ giao hiếu, gây cừu thù, thế mà Duyệt còn cố xin dung nạp. May mà trả lại những đồ cống phẩm, cho sứ giả về nước, danh nghĩa nước lớn được tỏ sáng ra với thiên hạ. Thế là Duyệt chẳng những vụng tính việc nước, mà lại cố muốn giữ ý kiến riêng để bào chữa cho điều đã sai trái. Đó là hai tội.
Năm Minh Mệnh thứ 7, thuyền Anh Cát Lợi bị nạn, đến đậu ở Bình Thuận, đã có Chỉ sai quan sở tại hộ tống, thế mà Duyệt cố xin đưa đến Gia Định và nói : quan trấn kiềm chế chẳng bằng thần có quyền, có thể khiến cho nó sợ lệnh tướng và oai quân. Nhưng không biết rằng hai chữ “có quyền” từ xưa vẫn rất kiêng, thế mà Duyệt nghiễm nhiên nhận lấy thì kiêu căng rông rỡ đến chừng nào ? Đó là ba tội.
Năm Minh Mệnh thứ 4, Thị vệ Trần Văn Tình đi việc công từ Gia Định về, tâu bày về những vết xấu của Trần Nhật Vĩnh làm riêng cửa hàng bán ngói và buôn lậu gạo thóc, Duyệt được tin, qua năm sau, nhân vào chầu, tha thiết xin giao Trần Văn Tình cho hắn đem chém, nếu không thì hắn sẽ nộp trả chức Tổng trấn. Sau đó, Duyệt xin nghỉ việc Tổng trấn. Như thế là cố ý “bắt eo” vua. “Bắt eo” vua thì là không biết “trên đầu có ai” ! Tội nào lớn hơn nữa ! Vả, xin giết một Trần Văn Tình là muốn cho mọi người khoá mồm, buộc lưỡi không dám bàn nói đến việc sai sót của hắn. Dụng tâm như thế lại là vô cùng giảo quyệt nham hiểm ! Đó là 4 tội.
Trần Nhật Vĩnh đã có chỉ bổ làm Ký lục Vĩnh Thanh, thế mà Duyệt còn dám cố xin cho ở lại thành Gia Định, Lê Đại Cương đã có Chỉ tuyên triệu (về Kinh), thế mà Duyệt lại cố xin cho lưu lại việc phủ Lạc Hoá. Đó đều là cố ý làm trái chiếu chỉ, mà trong tập tấu có nói : chuẩn cho làm theo lời thần yêu thỉnh thì sẽ có lợi đến chính sách ngoài biên. Duyệt lại xin chi lương cho thư lại các vệ, các cơ, các đội, trong tập tấu có nói : Lão thần ở xa nơi biên khổn sẽ có cái lo không được thực sự tin dùng ; trong đó lời lẽ đều tỏ ra bất kính. Đó là tội thứ 5.
Năm Minh Mệnh thứ 6, Duyệt làm sớ mật tâu khẩn khoản xin cho Lê Chất được thêm tuổi thọ, có nói : Đó là thuốc thánh khởi tử hồi sinh, tiếc gì không làm ? Vả, Duyệt được chia giữ biên khổn, lại dám lập bè đảng riêng như thế, thật rất không phải đạo tôi con. Đó là tội thứ 6.
Lại nghe nói : Duyệt lúc ngày thường, từng nói với người ta rằng xin được bài thơ phụ tiên có những câu :
“Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng
Phụ Chu ninh hậu Thập Chu thần
Tha niên tái ngộ Trần Kiều sự
Nhất đán hoàng đào bức thử thân”.
Nghĩa là : Giúp nhà Hán, đứng trước các tướng nhà Hán, giúp nhà Chu không chịu ở sau mười người bề tôi nhà Chu. Sau này lại gặp việc nhường ngôi như ở Trần Kiều, thì áo hoàng bào sẽ có người khoác vào cho mình.
Nếu không phải là kẻ vốn ôm ấp tấm lòng không chịu làm tôi thì quyết không bao giờ dám nói ra miệng và thuật cho người ta nghe những câu không giữ đạo làm tôi ấy. Bởi thế nên bộ hạ dưới cờ tập nhiễm thói quen, để đến thây chết chưa lạnh, đã xảy ra các án ghê gớm kia. Vậy xin nộp lại, giao cả cho đình thần quy kết để nêu tội danh cho thật đúng”. Vua y cho. Khi lời đình nghị dâng lên, Duyệt vì lời nói và việc làm bội nghịch, có 7 tội đáng chém :
Sai người riêng của mình sang Diến Điện, kết ngoại giao ngầm.
Xin đưa thuyền Anh Cát Lợi đến thành Gia Định để tỏ mình có quyền.
Xin giết Thị vệ Trần Văn Tình để khoá miệng người khác.
Dâng sớ chống lại mệnh vua, cố xin cho viên quan đã bổ thụ đi nơi khác được lưu lại và điều 1 viên quan đi làm việc khác khi đã có chiếu chỉ tuyên triệu((1) Chỉ việc Trần Nhật Vĩnh và Lê Đại Cương.1).
Kết bè đảng, xin cho Lê Chất được thêm tuổi thọ.
Dấu riêng những giấy đóng sẵn ấn ngự bảo.
Gọi mộ tiên nhân là “lăng” ; đối với người tự xưng là “cô“ ; 2 tội đáng xử, thắt cổ chết (cố xin dung nạp sứ giả Diến Điện để hòng bào chữa điều mình đã sai trái đó là một. Nói với người ta về việc xin được thơ tiên giáng bút có câu “Trần Kiều” và “Hoàng Bào”. Đó là hai) ; 1 tội đáng phải sung quân (tự tiện bắt biền binh đóng thuyền riêng). Duy sự biến loạn ở Phiên An, thực Duyệt là người đứng đầu gây vạ, chiếu theo luật mưu phản, nên khép tội lăng trì. Song Duyệt đã trước chịu tội âm rồi, thì xin truy đoạt bằng sắc, và bổ áo quan, phanh thây ra để tỏ sự răn dạy rõ ràng. Còn những cáo sắc phong tặng cho đời cụ, đời ông và bố mẹ của Duyệt đều thu lại cả. Các mồ mả tiên nhân có chỗ nào tiến lạm trái phép thì đều huỷ bỏ đi. Các con em và vợ cả vợ lẽ của Duyệt đều xử tội có phân biệt, tài sản đều tịch thu.
Vua cho rằng : “Cháu của phạm nhân là Lê Văn Hán cùng đầu đảng giặc Lê Văn Khôi dựa nhau làm loạn, tội tình rõ ràng đích xác, chuẩn cho đem xử tội lăng trì. Vợ cả Duyệt đem chém ngay. Anh em tên Hán là lũ Lê Văn Yến, Lê Văn Tề 6 tên, trước xử án trảm quyết, nay đổi làm trảm giam hậu. Lũ Lê Văn Sầm 6 tên đều mới dưới 15 tuổi, hãy giam lại cho nghiêm cẩn. Hai con tên Yến, hai con tên Tề, bé dại không biết gì thì tha không nã bắt. 13 người đàn bà trước xử bắt làm đầy tớ gái, nay thả cả. 3 người vợ cả, vợ lẽ của Duyệt trước xử phanh thây, nay cũng không xét hỏi nữa”.
Duy về tội danh của Duyệt, còn muốn lấy ý kiến dư luận ở các tỉnh ngoài để tỏ án xử là đúng, bèn dụ sai bộ Hình sao bản án ra, cấp cho các Tổng đốc, Tuần phủ các tỉnh cho họ góp ý kiến làm chuyên tập tâu lên. Hộ lý Tuần phủ Lạng - Bình là Trần Huy Phác xin khép con kế tự của Duyệt là Lê Văn Yến cùng với các cháu là Lê Văn Thiện và Lê Văn Nguyên vào tội trảm quyết. Hộ lý Tuần phủ Quảng Yên là Lê Dục Đức, xin trị tội những thân thuộc phạm nhân từ 16 tuổi trở lên. Còn thì đều xin y theo đình nghị.
Vua dụ rằng : “Thế đủ thấy lẽ trời sáng tỏ không sai ; đạo công tồn tại ở người ta, thực không thể bưng bít. Kẻ quyền gian gây vạ, cả thiên hạ đều giận, mọi việc ác đều dồn vào, muôn miệng cùng nói như một, đủ tỏ là cái án đích xác, nghìn năm bất dịch. Vả, tội của Lê Văn Duyệt đếm tội cũng không kể hết, nói đến đau lòng ; dù bổ áo quan mà phanh thây cũng không oan. Song nghĩ : hắn chết đã lâu, trước chịu tội âm rồi, lại đã truy đoạt quan tước, còn nắm xương khô trong mả, nay cũng chẳng thèm gia hình. Vậy sai Đốc phủ Gia Định lập tức san mồ mả thành đất phẳng và dựng cái bia đá ở trên khắc 8 chữ lớn : “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” Åv ́I ¾¤ ¤å ®® ¥ñ ªk ³B (Chỗ hoạn quan lộng quyền là Lê Văn Duyệt chịu tội chết), để nêu rõ tội danh ở sau khi chết, mà làm tỏ sáng phép nước về sau này, và để làm gương răn cho những kẻ quyền gian muôn đời. Lũ con Duyệt là Lê Văn Yến, không kể Lê Văn Duyệt là kẻ đứng đầu gây tội, chỉ kể ngay việc em hắn là Lê Văn Hán giao thông với nghịch tặc, thì luật đã có minh văn nói rõ về việc thân thuộc phải tội lây, nhưng nghĩ tên Hán chẳng qua càn dại trong một thời đi lại với giặc, nhưng có khác với những kẻ trước sau theo giặc chống lại quan quân. Lê Văn Hán đã phải tội cực hình, đủ tỏ phép nước, còn các kẻ khác thì xử vào tội trảm giam hậu cũng đủ để đền tội. Đạo dụ này cho sao lục phát đi trong Kinh và ngoài các tỉnh mỗi nơi 1 bản, khiến cho ai nấy đều biết triều đình thi hành pháp luật một mực chí công, rõ ràng cân nhắc lưỡi gươm ba thước, nghiêm cẩn nêu cao rìu búa nghìn thu”.
Bộ Lại và bộ Hình lại trích những người dưới cờ của Duyệt đã về hưu hoặc đã chết để tâu lên. Vua sai đều truy đoạt bằng sắc, chớ để bêu xấu quan chức.
Tập 05
chính biên
đệ nhị kỷ - quyển CXc
thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế
Mậu Tuất, Minh Mệnh năm thứ 19 [1838]. Mùa xuân, tháng 3, ngày Giáp Tuất, mới định quốc hiệu là nước Đại Nam.
Đình thần tâu nói : Tù giam ở ngục Gia Định mưu làm phản vượt ngục, suy tôn tội phạm phải giam là Lê Văn Sơn, tức là cháu họ tên phạm cũ Lê Văn Duyệt, con của nghịch phạm Lê Văn Hán, thế là trước sau mưu làm giặc đều từ một nhà
Lê Văn Duyệt gây nên, mầm ác không thể không trừ, các con cháu Lê Văn Duyệt là bọn Lê Văn Yên, Lê Văn Tề, Lê Văn Phước, Lê Văn Thận, Lê Văn An, Lê Hào, Lê Văn Sầm, Lê Văn Doanh 8 tên, vẫn đương giam cấm, xin xử chém cả cho hết mầm ác”.
Vua bảo rằng : “Lê Văn Duyệt là hoạn quan làm đầy tớ, chỉ dùng sai khiến ở trong cung, nguyên không phải tài năng kỳ dị, hay dũng tướng mưu thần, chẳng qua trước vì Nhà nước lắm việc, Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta, phàm tôi tớ trong triều, ngoài các trấn, đều sai đem quân đánh giặc, cho chóng rửa được thù thẹn, vừa gặp buổi rồng mây gặp hội, và Nhà nước sẽ bắt đầu thịnh lớn, nên trời tổ ban Phước cho, bách thần hết sức giúp, lại nhờ có mưu mô của triều đình, kế hoạch thần diệu làm việc quyết định sáng suốt, hằng năm Hoàng khảo ta, thân đem sáu quân các công thần chưa từng tự chuyên đánh dẹp, tai mắt mọi người, đều nghe thấy cả, sau khi đại định, vinh phong cho các công thần, hắn cũng vì đi ở nơi hàng trận, có công khó nhọc, lạm dự phong tước quận công, em hắn là Lê Văn Phong, làm quan đến tòng nhất phẩm, con nuôi hắn là Lê Văn Yên lại được gả công chúa cho, một nhà anh em, rất nhiều vinh hiển ơn nước hậu biết chừng nào, thế mà cậy công kiêu bậy, khinh thường hiến pháp, riêng nghĩ làm xằng, không việc gì là không làm, hằng muốn mượn cớ đem quân ra đóng ở ngoài, hy vọng nghe ngóng, hầu cho là không ai dám làm gì, đã bị mọi người tố giác, Hoàng khảo ta đã soi biết tâm tích, nhưng nghĩ hắn là một kẻ hoạn quan, ai chịu nghe theo, sẽ không làm gì được, hãy nín nhịn bỏ qua. Đến khi trẫm lên ngôi vua, tóm cả muôn việc, hắn sợ không thoả được mưu gian, liền dám đem lòng bất mãn, càn ngạo bất kính, thường thấy lộ ra lời nói và nét mặt, trẫm lại nghĩ bầy tôi cũ không còn mấy người, càng thương yêu hơn, cũng không lấy làm ngờ ghét, thế mà hắn kiêu ngạo tăng thêm, càn dỡ càng lắm, tức như việc chiêu nuôi bọn tù phạm hung ác người nhà Thanh để làm tâm Phước ; cố kết với gian thần là Lê Chất, để làm việc ngầm cùng là ngầm kén voi trâu khoẻ mạnh, đem theo đến chỗ đóng, riêng thu cả thuyền bè 6 tỉnh, coi như của mình, lại đắp thành cao, đào hào sâu, ngang với kinh sư, phàm các việc ấy đều là chứa chất lòng ác, ngầm mang lòng không theo pháp luật. Ngoài các việc ấy, tội ác còn nhiều, xét việc làm của hắn, việc gian rõ ràng, tính đốt tay không xiết được, hơn nữa giúp đỡ cho Trần Nhật Vĩnh, tàn ngược bừa bãi, hút máu mủ nhân dân 6 tỉnh Nam Kỳ, số của lót thường đến vài mươi vạn, đến khi việc vỡ lở, sợ tội đến mình, không đừng được mới xin đem Nhật Vĩnh ra chém, để tự che đậy mà nhân dân bị giày xéo nát nhừ, đã không xiết kể. Sau khi chết, lại phát xuất ra việc riêng giấu giấy đóng ấn sẵn, riêng đóng thuyền bè gỗ nam, làm rất nhiều việc không công bằng không theo pháp luật, triều đình cũng chưa nỡ hỏi đến, thế mà trong hàng ngũ của hắn, như lũ Lê Văn Khôi, Thái Công Triều, nhân thấy ngày thường dối trá lăng phạm người trên, tập thành thói quen, không còn biết có triều đình, cho nên xác thịt của hắn chưa tan hết, mà bọn Khôi đem nhau nổi loạn, giữ thành làm phản, cháu họ hắn là Lê Văn Hán cũng cùng với hắn trước sau cùng mưu, thậm chí đến bọn trẻ con chơi đùa gà chọi chó săn, không ai là không hùa theo làm loạn, để cho dân 6 tỉnh Nam Kỳ phải khổ, giặc Xiêm nhân đó xâm lấn quấy rối ngoài biên, gan óc quân dân tan tành hết cả, may nhờ trời đất thương giúp, miếu xã ban ơn, trẫm sai tướng đem quân, chỉ bảo kế hoạch, thêm được tướng có mưu, quân hùng mạnh, hợp sức cùng lòng, trước dẹp yên giặc Xiêm, sau dẹp yên thành Phiên An, lâu đến 3 năm, rồi sau mới xong việc, mà quân dân khổ cực, không biết đã bao nhiêu, nói đến không ai là không nhức đầu đau ruột, trước đã được đình thần nghị xử : lời nói và việc làm của chúng trái ngược, đáng phải tội chém 7 người, tội thắt cổ 2 người và tội sung quân 1 người, nhưng xét việc gây biến ở Phiên An, thực là tai hoạ bậc nhất, xin xử tội lăng trì xử tử và bổ quan tài, chém xác chết, để tỏ răn bảo rõ ràng. Cứ theo án ấy định, không kể tội của hắn, thân thuộc đã phải tội lây, và đem việc Lê Văn Hán cùng với giặc Khôi làm phản, thì một nhà anh em thân thuộc cũng nên phải tội chết, hiện nay chỉ cứ tên giặc Lê Văn Hán và người ở cùng một nhà là bọn Lê Văn Nguyên, Lê Văn Thiện phải xử chém mà thôi, còn người không ở cùng nhà thì hãy tạm giam cấm, các đàn bà con gái và trẻ con đều tha không phải tra bắt. Lê Văn Duyệt cũng tha chém xác cho xương khô được toàn, còn như con của tên giặc Lê Văn Hán là Lê Văn Sơn cũng còn giam cấm, thực đã quá nhờ điển lệ khoan hồng, mấy lần xét án mùa thu đình nghị và pháp quan lại đều cho là bọn Lê Văn Yên theo luật nên phải tội lây và xin xử chém, nhưng trẫm cũng chưa nỡ quyết vội, không ngờ bọn tù trong ngục lại muốn suy tôn Lê Văn Sơn, mưu theo vết xe cũ của giặc Khôi như thế, ác nghịch ngập trời, tội không tha được. Nay đình thần tâu lên, thực do ở lòng công phẫn công tâm, nếu trẫm lại tạm bợ dung cho kẻ gian, giả sử ngày sau lại sinh biến khác thì người sẽ cho trẫm là thế nào ? Cho nên không thể không theo lời xin ấy, Lê Văn Yên chuẩn cho tự chết, Lê Văn Tề, Lê Văn Phước, Lê Văn Thận, Lê Văn An, Lê Hào, Lê Văn Sầm, Lê Văn Doanh đều chém ngay, còn con của Lê Văn Yên là Lê Văn Diễn, Lê Văn Minh, con của Lê Văn Tề là Lê Văn Hợp, Lê Văn Dũng tạm tha cho tội chết, phát đi an trí ở Cao Bằng, đợi khi trưởng thành, do địa phương xét, quả là yên phận giữ phép, hay hoặc có tình trạng hung ác khác, cứ thực tâu bày, đợi Chỉ, đó là một nhà Lê Văn Duyệt bạn nghịch, ác nghiệt tự mình gây ra, tội giết không tha được, có can phạm đến đại nghĩa đại pháp, không thế không được.
Vả lại trẫm từ khi nối ngôi vua tới nay, hậu đãi các công thần, sống thì vinh, chết thì thương, đến con cháu cũng được đời đời tập ấm, có phẩm tước để nối nghiệp nhà, có mũ đai để thân được vinh hiển, ân điển ngày càng nhiều, trong ngoài vốn nghe biết, không đợi nay phải nói nhiều, giả sử phạm phải tội lỗi tầm thường, tức luật có nghị công, còn có thể lượng cho tha thứ, còn như lòng hung bạo như sài lang, hại dân hại nước, gây tai vạ với triều đình, nếu lại theo tình bỏ phép, thì sao tỏ được nghĩa xuân thu, mà tỏ bảo về sau, chuẩn cho bộ Hình đem nguyên uỷ án ấy thông dụ cho các địa phương các trực tỉnh, cho cả nước biết triều đình thưởng người có công, phạt người có tội, là do lòng đại công chí chính, không vì lỗi nhỏ mà mất cả công, cũng không vì tội to mà pháp luật phải khuất khúc, khiến cho kẻ thiện biết khuyến khích, kẻ ác biết răn chừa, làm gương để răn mãi”. Bộ Hình lại tâu nói : tội của phạm viên Lê Chất giống với tội Lê Văn Duyệt, cháu họ của Duyệt đã phát đi Cao Bằng, thì người họ để tang một năm bị tội lây của Chất là bọn Lê Luận 8 tên cũng nên phân phát đi an trí ở Lạng Sơn, Tuyên Quang, do quan địa phương quản thúc. Vua nghe theo.
## Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (toàn tập).
### Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2007.
---
Tập 03
Chính biên
ĐỆ NHỊ KỶ - QUYỂN LXIV
Thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế
Canh dần, năm Minh Mệnh thứ 11 [1830] (Thanh Đạo Quang năm thứ 10), mùa xuân, tháng giêng
Tả thị lang Hộ bộ Hoàng Quýnh đem việc thành thần Gia Định tư rằng vật giá đắt vọt lên, nhà nước mua không đủ, vào chầu tâu trước vua, nhân nói việc đặt mua rất không tiện: “Thần trước hiệu lực ở Quảng Bình, tự mình thấy rõ tệ ấy. Tức như da trâu và lưới rách, để đấy là đồ bỏ đi, bán cho quan thì được giá tốt, thế mà trong dân đến nỗi có kẻ giết trâu xé lưới để cầu khỏi việc đòi bắt. Phàm triều đình lập pháp là vốn muốn nhân việc gia ân để giúp dân, mà một khi quan lại không thể đức ý ấy thì da trâu lưới rách còn sinh ra tệ, huống là có món lại quá thế nữa”.
Vua nói rằng: “Những vật nhà nước cần dùng không thể thiếu được. Những sản vật các địa phương sản xuất, không mua ở dân thì lấy đâu cho đủ dùng. Chỉ sợ hữu ty không biết giữ lòng công theo pháp luật mà thôi. Như năm trước mua đậu khấu mỗi 100 cân trả đến trên dưới 150 lạng bạc, thế mà bảo hộ Chân Lạp là Nguyễn Văn Thuỵ cùng phạm viên là Trần Nhật Vĩnh chỉ trả 50, 60 lạng, lại còn nói tự xuất của nhà để cấp thêm. Bọn ấy đã mưu gian cho đầy túi, lại đổ lỗi cho bề trên, thì dân mọn ở biên thuỳ còn trông mong gì nữa. Trẫm đã từng mạt sát mối tệ, đinh ninh răn bảo, không biết Hộ tào ngày nay là Ngô Bá Nhân đã biết soi gương ấy hay chưa !”. Quýnh vốn là người ngay thẳng, gặp việc dám nói, vua cũng dung nạp.
chính biên
đệ nhị kỷ - Quyển LXXx
Thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế
Nhâm thìn, năm Minh Mệnh thứ 13 [1832], mùa hạ, tháng 5.
Truy luận tội Nguyễn Văn Thuỵ nguyên Bảo hộ Chân Lập.
Trước đây, Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định, sai Hình tào Vũ Du đi dò xét tình trạng dân Phiên ((1) Phiên : đây là dùng chỉ Chân Lạp.1). Du về nói dò được việc Nguyễn Văn Thuỵ, khi lĩnh chức Bảo hộ, ngày thường bắt dân Phiên đi lấy gỗ táu đem nộp mà không cấp tiền và gạo, lại bắt dân Phiên làm việc tư, sửa đắp đường cái, để đưa đám chôn cất vợ. Duyệt đem hết tình trạng ấy tâu lên. Vua ra lệnh tịch thu gia sản và giao xuống bộ Hình nghiêm ngặt nghị tội, rồi lại sai đình thần bàn xét lại. Đến đây bản án dâng lên. Vua dụ rằng : “Nguyễn Văn Thuỵ đã được uỷ cho trọng trách bảo vệ biên cương, thế mà không biết tuyên dương đức hoá, vỗ yên dân chúng ngoài biên, lại dám sinh sự nhiễu dân, gây nhiều suối tệ ! Huống chi Thuỵ lại cùng kẻ bị tội trảm quyết là Trần Nhật Vĩnh dối trá giấu giếm mọi việc dựa nhau làm điều gian, tội ác rất nặng, nếu con người ấy còn sống thì ta cũng cứ giữ lòng chí công làm đúng hình pháp, chém đầu để bêu cho mọi người biết. Nay Thuỵ đã chết rồi, lại nghĩ ngày trước hãy có chút công lao ở Vọng Các, lòng Trẫm không nỡ, vậy gia ơn chỉ truy giáng Thuỵ xuống hàm Chánh ngũ phẩm và đoạt lại chức tập ấm của con hắn, duy cáo sắc tặng phong cha mẹ thì được miễn theo. Còn tang vật mà Thuỵ đã sách nhiễu dân Phiên thì phải truy ra rồi lấy gia sản kẻ phạm tội ấy mà truy cấp cho dân Phiên”.
Nhân đó vua sai Lang trung bộ Công là Lê Hựu đem sắc thư sang nước Chân Lạp, tuyên dụ vua Phiên, nói cho biết rằng, đối với việc viên Bảo hộ Nguyễn Văn Thuỵ quấy nhiễu dân, triều đình đã trị tội rồi, vương nên kính cẩn giữ lễ phiên phục, chớ bận lòng vì một viên chức hư hỏng.
Vua Phiên dâng biểu nói : “Năm trước có việc đi lấy gỗ táu đem nộp thì dân Phiên đã lĩnh tiền và gạo của nhà nước cấp rồi. Vậy tha thiết xin đình chỉ việc cấp cho nữa”. Vua dụ bộ Lễ rằng : “Nước Chân Lạp đứng hàng phiên thần, việc ta xếp đặt sự nghi có quan hệ đến quốc thể không nhỏ. Vũ Du vâng mệnh đi dò la, không xét đưa nguyên uỷ đích xác, đột nhiên về báo rất là sai lầm, vậy trước hãy cách chức ngay, rồi giao bộ Hình bàn xử. Nguyễn Văn Thuỵ dẫu không can vào việc này, nhưng sai dân Phiên làm việc riêng, sửa mộ đắp đường, cũng là đáng tội, vậy cứ chuẩn y nguyên án. Vả Vũ Du khi đi dò xét, không đúng sự thực thì phải giao ngay bàn xét để trừng phạt. Còn các điều mà Nguyễn Văn Thuỵ đã phạm, điều gì không có thì phải vì hắn mà làm cho sáng tỏ ra, còn điều gì có thực thì cũng không coi nhẹ mà tha được, đó là ta đã cân nhắc nặng nhẹ, giữ lòng rất công, vốn không có ý làm hơn làm kém ở trong đó. Vậy khi đưa tờ dụ này cho thành Gia Định, rồi sao chép ra, cấp cho con Nguyễn Văn Thuỵ được biết”. Sau đó, bộ Hình nghị xử Vũ Du vào tội đồ, nhưng vua đặc cách cho cách chức, phát đi Cam Lộ gắng sức làm việc để chuộc tội.
Trần Thái Tín, Lang trung bộ Binh biện lý công việc biên cương ở thành Nam Vang, cậy thế, mưu toan việc riêng bị giáng cách chức.
Tập 04
Chính biên
đệ nhị kỷ - quyển clxii
thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế
ất Mùi, Minh Mệnh năm thứ 16 [[1835], mùa đông, tháng 11.
Truy luận về tội của nguyên Tổng trấn thành Gia Định là Lê Văn Duyệt.
Trước đây, Tả phó đô ngự sử viện Đô sát là Phan Bá Đạt, Khoa đạo Nguyễn Văn và Vũ Danh Thạc tâu nói : “Lê Văn Duyệt khi ở Gia Định, dùng lũ nghịch Khôi, nghịch Nhã làm nanh vuốt, lấy đội Hồi lương, đội Bắc thuận làm tâm Phước. Lũ chúng vốn chẳng phải loài lương thiện, tính ác khó thuần. Cho nên Duyệt chết chưa bao lâu, nghịch Nhã đem ngay đội Hồi lương, Bắc thuận cùng lũ trọi gà, phường hạt ở dưới cờ, giữ thành làm phản, nhân đó lòng người bị mê hoặc, vạ lây đến các tỉnh Nam Kỳ, làm phiền đại đội quan quân phải tiến đánh. Năm tỉnh thành tuy đã lấy lại được, nhưng thành Phiên An là chỗ Duyệt ở trước, đảng giặc hãy còn chiếm giữ, do đấy những của cải ở trong thành đều bị mất sạch. Quan quân luôn năm đánh dẹp, có người bị thương và bị chết ! Tai vạ đó không sao nói hết ! Nay Duyệt đã chết, dẫu không thể xét kỹ được sự trạng, nhưng xem những việc như tên con nuôi là Lê Văn Hán trước đây ra vào trong thành, liên lạc với nghịch Khôi và khi đảng nghịch đến nhà thờ Lê Văn Duyệt, toan đem Bạch Xuân Nguyên bó làm đèn đuốc để tế Duyệt, thì chẳng việc kín nào không lộ, chẳng việc nhỏ nào không rõ. Thế thì tâm tích của Duyệt chẳng cần hỏi cũng biết được. Nếu chẳng định rõ tội danh thì e không lấy gì để răn người sau này. Vậy xin truy đoạt quan chức của Duyệt, còn vợ con Duyệt thì giao bộ Hình tra rõ, nghiêm xử để làm sáng tỏ phép nước”.
Vua dụ Nội các rằng : “Lê Văn Duyệt do hoạn quan xuất thân, vốn là đầy tớ trong nhà, nhân buổi trung hưng rồng mây gặp hội, cũng dự có công lao trong cuộc dẹp yên Tây Sơn. Đức Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta, nghĩ hắn khi tuổi trẻ, hầu hạ ở trong cung, tin như ruột thịt nên nhiều lần đã trao cho cờ tiết và phủ việt. Chẳng ngờ lũ ấy phần nhiều không phải loài lương thiện, ngày càng rông rỡ, dần dần có ý không chịu làm tôi, rông dài làm càn nói năng ngông cuồng, bội nghịch, chỉ vì lòng còn sợ đức thánh minh, lại vì còn nhiều người chen vai thích cánh, nên Duyệt dù có lòng gian, cũng chưa dám lộ. Hoàng khảo ta khi có tuổi cũng đã dần dần biết thóp, nhưng lại nghĩ tên đầy tớ ấy tuy mang lòng làm việc trái phép, nhưng thiên hạ đã đại định, tôi con ai chịu theo kẻ thân tàn sau khi đã thiến, chắc hắn không làm gì được ! Đối đãi tuy ngày nhạt dần, nhưng cứ chịu đựng rồi bỏ qua. Đến khi ta nối ngôi, cũng cho rằng các bầy tôi cũ không còn mấy, mà hắn lại đã già rồi, nên hãy cứ đối đãi tử tế, hoặc giả hắn biết ngầm đổi thói xấu, lặng theo đức hoá, để công thần được bảo toàn, cũng là một việc rất tốt. Chẳng ngờ hắn bụng nghĩ như rắn, rết, tính tựa hổ lang, ngông cuồng càng lắm, càn rỡ ngày thêm, thường lớn tiếng nói với mọi người : bới vạch điều thiếu sót của triều đình, khoe khoang tài giỏi của mình, phỉ báng hết lời, khiến người chẳng nỡ nghe nữa !
Năm trước, trong tù phạm Thanh - Nghệ, phàm những kẻ nào hung dữ, hắn đều chiêu dụ ra thú, tâu cho lệ thuộc dưới cờ để làm nanh vuốt. Lê Văn Khôi, là đồ vô lại, được hắn tiến cử làm quan đến Phó vệ uý, theo ở dưới cờ để làm tâm Phước. Đối với thổ hào như bọn Dương Văn Nhã và Đặng Vĩnh Ưng, hắn ngầm cho tìm đến ; đối với chỗ thông gia bên ngoài như lũ Vũ Vĩnh Tiên và Vũ Vĩnh Lộc, hắn ngầm gây làm bè đảng. Đối với những tù phạm ở Bắc Kỳ phát phối đến đó, hắn cho ở cả trong thành, thả cho làm lính. Lại ngầm kén lấy những voi chiến, khoẻ và dữ để đem theo đến chỗ đồn thú. Hắn vơ vét tất cả thuyền bè, súng ống, khí giới của Lục tỉnh Nam Kỳ để cả ở thành Phiên An. Lại riêng nghe những lời xảo trá của Trần Nhật Vĩnh, hút máu rán mỡ hầu hết nhân dân sáu tỉnh Nam Kỳ. Duyệt dùng kiệt sức quân và dân, đắp cao thành Phiên An, lộng hành cũng như thành ở kinh đô, mà hào lại có phần sâu hơn. Nếu bảo đắp thành cao, đào hào sâu để chống giặc Xiêm, thì đường biển nên phòng giữ ở Hà Tiên, đường bộ nên phòng giữ ở Chân Lạp, há có lẽ nào lại bỏ bốn tỉnh An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long, Định Tường mà chỉ giữ ở Phiên An hay sao ? Rõ ràng thế là Duyệt cốt phòng ngừa triều đình, chứ chẳng phải phòng ngừa giặc ngoài. Suy đó ra, thì tâm địa hắn người qua đường cũng đều biết rõ. Người ta đều né mắt, đau lòng chỉ giận rằng chẳng chịu vì triều đình mà sớm phát giác ra đó thôi.
“Nuôi ong tay áo, mối vạ ngày một to, cho nên tên quan hoạn lộng quyền đó tuy đã phải chịu tội âm, nhưng lũ lau nhau còn giữ được thành để làm phản. Nếu không có bọn quan tứ mục hèn kém ngu tối như Nguyễn Văn Quế, tham lam tàn bạo như Bạch Xuân Nguyên, mà lũ hung tợn dưới cờ của hắn hay làm những việc bất lương, quen thấy những điều dối vua, lấn trên, thì cũng đều muốn đua hơn cả. Thậm chí nói với người ta rằng : “Duyệt đi trấn thành Gia Định, vốn là phong vương để giữ đất ấy, chứ chẳng như các tổng trấn tầm thường khác. Lại nữa, mộ cha và mộ em của Duyệt đều tiếm gọi là “lăng” ; có khi nói với người khác hắn xưng là “cô” đến nỗi làm cho bộ hạ hắn tập lâu thành quen, chỉ biết có Lê Văn Duyệt chứ không hề biết có triều đình ! Hữu tử có nói : “Chưa hề có kẻ nào không muốn phạm thượng mà muốn làm loạn”. Như thế thì cũng chưa hề có kẻ nào muốn phạm thượng mà không muốn làm loạn”. Mầm loạn có đã lâu ngày, thì muốn những kẻ dưới cờ hắn không làm phản sao được ?
“Bởi thế, Duyệt chết chưa bao lâu, lũ thủ nghịch Lê Văn Khôi đã đem nhau giết quan, giữ thành, làm phản, nói phao lên là báo thù cho Duyệt. Cháu ruột Duyệt là Lê Văn Hán cũng cùng làm phản ; đến cả đồng bộc và bộ hạ đều theo giặc làm loạn, không một tên nào đi trốn cả. Chúng cố kết nhau làm tử đảng, cậy có thành cao, hào sâu, lương thực tích trữ như núi, khí giới tinh nhuệ, đồ đảng đông nhiều, chống cự quân nhà vua lâu đến 3 năm. Nhiều lần đã mở cho đường sống, chúng vẫn không hối tội ra thú để đến quân dân gan óc lầy đất, nói đến đau lòng ! Xét đến nguyên do thì Lê Văn Duyệt mỗi cái tóc là một cái tội ! Huống chi, ngoài đó ra, Duyệt còn ấp ủ lòng ác, nói năng bội nghịch, còn có những lời mà ta chưa nỡ vội nói. Nay trước hãy đem những hành vi của hắn đã được người ta tai nghe mắt thấy và những cớ do hắn gây nên hoạ loạn mà biểu thị rõ ràng. Vậy cái chỗ Lê Văn Duyệt và con cháu hắn đáng nên xử tội thế nào, giao cho đình thần bàn định nghĩ xử, tâu lên sẽ xuống Chỉ cho làm”.
Bọn Nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh lại tâu nói : “Lê Văn Duyệt nuôi dưỡng loài phỉ gây thành biến loạn, ấp ủ hoạ thai đã lâu, chẳng phải là mới một ngày. Xét những tấn sở của Duyệt từ trước tỏ ra hình tích bội nghịch có đến 6 điều.
- Năm Minh Mệnh thứ 4, Duyệt tự tiện sai bọn Phan Đồng Đạt là người của hắn, mượn tiếng đi dò thám, đáp thuyền riêng sang Diến Điện ; trong việc này văn thư hắn có sự giao thông chiêu nộp. Xét theo cái nghĩa người làm tôi không được ngoại giao riêng, thì ý nghĩ và việc làm của Duyệt ra sao còn phải bàn gì nữa ! Đó là một tội.
- Đến khi sứ Diến Điện đến thành Gia Định, bấy giờ mới đem việc tâu lên. Việc đã được dụ bảo phải xử đoán theo đại nghĩa, không nên nhẹ dạ nghe người ngoài nói mà bỏ giao hiếu, gây cừu thù, thế mà Duyệt còn cố xin dung nạp. May mà trả lại những đồ cống phẩm, cho sứ giả về nước, danh nghĩa nước lớn được tỏ sáng ra với thiên hạ. Thế là Duyệt chẳng những vụng tính việc nước, mà lại cố muốn giữ ý kiến riêng để bào chữa cho điều đã sai trái. Đó là hai tội.
- Năm Minh Mệnh thứ 7, thuyền Anh Cát Lợi bị nạn, đến đậu ở Bình Thuận, đã có Chỉ sai quan sở tại hộ tống, thế mà Duyệt cố xin đưa đến Gia Định và nói : quan trấn kiềm chế chẳng bằng thần có quyền, có thể khiến cho nó sợ lệnh tướng và oai quân. Nhưng không biết rằng hai chữ “có quyền” từ xưa vẫn rất kiêng, thế mà Duyệt nghiễm nhiên nhận lấy thì kiêu căng rông rỡ đến chừng nào ? Đó là ba tội.
- Năm Minh Mệnh thứ 4, Thị vệ Trần Văn Tình đi việc công từ Gia Định về, tâu bày về những vết xấu của Trần Nhật Vĩnh làm riêng cửa hàng bán ngói và buôn lậu gạo thóc, Duyệt được tin, qua năm sau, nhân vào chầu, tha thiết xin giao Trần Văn Tình cho hắn đem chém, nếu không thì hắn sẽ nộp trả chức Tổng trấn. Sau đó, Duyệt xin nghỉ việc Tổng trấn. Như thế là cố ý “bắt eo” vua. “Bắt eo” vua thì là không biết “trên đầu có ai” ! Tội nào lớn hơn nữa ! Vả, xin giết một Trần Văn Tình là muốn cho mọi người khoá mồm, buộc lưỡi không dám bàn nói đến việc sai sót của hắn. Dụng tâm như thế lại là vô cùng giảo quyệt nham hiểm ! Đó là 4 tội.
- Trần Nhật Vĩnh đã có chỉ bổ làm Ký lục Vĩnh Thanh, thế mà Duyệt còn dám cố xin cho ở lại thành Gia Định, Lê Đại Cương đã có Chỉ tuyên triệu (về Kinh), thế mà Duyệt lại cố xin cho lưu lại việc phủ Lạc Hoá. Đó đều là cố ý làm trái chiếu chỉ, mà trong tập tấu có nói : chuẩn cho làm theo lời thần yêu thỉnh thì sẽ có lợi đến chính sách ngoài biên. Duyệt lại xin chi lương cho thư lại các vệ, các cơ, các đội, trong tập tấu có nói : Lão thần ở xa nơi biên khổn sẽ có cái lo không được thực sự tin dùng ; trong đó lời lẽ đều tỏ ra bất kính. Đó là tội thứ 5.
- Năm Minh Mệnh thứ 6, Duyệt làm sớ mật tâu khẩn khoản xin cho Lê Chất được thêm tuổi thọ, có nói : Đó là thuốc thánh khởi tử hồi sinh, tiếc gì không làm ? Vả, Duyệt được chia giữ biên khổn, lại dám lập bè đảng riêng như thế, thật rất không phải đạo tôi con. Đó là tội thứ 6.
- Lại nghe nói : Duyệt lúc ngày thường, từng nói với người ta rằng xin được bài thơ phụ tiên có những câu :
“Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng
Phụ Chu ninh hậu Thập Chu thần
Tha niên tái ngộ Trần Kiều sự
Nhất đán hoàng đào bức thử thân”.
Nghĩa là : Giúp nhà Hán, đứng trước các tướng nhà Hán, giúp nhà Chu không chịu ở sau mười người bề tôi nhà Chu. Sau này lại gặp việc nhường ngôi như ở Trần Kiều, thì áo hoàng bào sẽ có người khoác vào cho mình.
Nếu không phải là kẻ vốn ôm ấp tấm lòng không chịu làm tôi thì quyết không bao giờ dám nói ra miệng và thuật cho người ta nghe những câu không giữ đạo làm tôi ấy. Bởi thế nên bộ hạ dưới cờ tập nhiễm thói quen, để đến thây chết chưa lạnh, đã xảy ra các án ghê gớm kia. Vậy xin nộp lại, giao cả cho đình thần quy kết để nêu tội danh cho thật đúng”. Vua y cho. Khi lời đình nghị dâng lên, Duyệt vì lời nói và việc làm bội nghịch, có 7 tội đáng chém :
1. Sai người riêng của mình sang Diến Điện, kết ngoại giao ngầm.
2. Xin đưa thuyền Anh Cát Lợi đến thành Gia Định để tỏ mình có quyền.
3. Xin giết Thị vệ Trần Văn Tình để khoá miệng người khác.
4. Dâng sớ chống lại mệnh vua, cố xin cho viên quan đã bổ thụ đi nơi khác được lưu lại và điều 1 viên quan đi làm việc khác khi đã có chiếu chỉ tuyên triệu((1) Chỉ việc Trần Nhật Vĩnh và Lê Đại Cương.1).
5. Kết bè đảng, xin cho Lê Chất được thêm tuổi thọ.
6. Dấu riêng những giấy đóng sẵn ấn ngự bảo.
7. Gọi mộ tiên nhân là “lăng” ; đối với người tự xưng là “cô“ ; 2 tội đáng xử, thắt cổ chết (cố xin dung nạp sứ giả Diến Điện để hòng bào chữa điều mình đã sai trái đó là một. Nói với người ta về việc xin được thơ tiên giáng bút có câu “Trần Kiều” và “Hoàng Bào”. Đó là hai) ; 1 tội đáng phải sung quân (tự tiện bắt biền binh đóng thuyền riêng). Duy sự biến loạn ở Phiên An, thực Duyệt là người đứng đầu gây vạ, chiếu theo luật mưu phản, nên khép tội lăng trì. Song Duyệt đã trước chịu tội âm rồi, thì xin truy đoạt bằng sắc, và bổ áo quan, phanh thây ra để tỏ sự răn dạy rõ ràng. Còn những cáo sắc phong tặng cho đời cụ, đời ông và bố mẹ của Duyệt đều thu lại cả. Các mồ mả tiên nhân có chỗ nào tiến lạm trái phép thì đều huỷ bỏ đi. Các con em và vợ cả vợ lẽ của Duyệt đều xử tội có phân biệt, tài sản đều tịch thu.
Vua cho rằng : “Cháu của phạm nhân là Lê Văn Hán cùng đầu đảng giặc Lê Văn Khôi dựa nhau làm loạn, tội tình rõ ràng đích xác, chuẩn cho đem xử tội lăng trì. Vợ cả Duyệt đem chém ngay. Anh em tên Hán là lũ Lê Văn Yến, Lê Văn Tề 6 tên, trước xử án trảm quyết, nay đổi làm trảm giam hậu. Lũ Lê Văn Sầm 6 tên đều mới dưới 15 tuổi, hãy giam lại cho nghiêm cẩn. Hai con tên Yến, hai con tên Tề, bé dại không biết gì thì tha không nã bắt. 13 người đàn bà trước xử bắt làm đầy tớ gái, nay thả cả. 3 người vợ cả, vợ lẽ của Duyệt trước xử phanh thây, nay cũng không xét hỏi nữa”.
Duy về tội danh của Duyệt, còn muốn lấy ý kiến dư luận ở các tỉnh ngoài để tỏ án xử là đúng, bèn dụ sai bộ Hình sao bản án ra, cấp cho các Tổng đốc, Tuần phủ các tỉnh cho họ góp ý kiến làm chuyên tập tâu lên. Hộ lý Tuần phủ Lạng - Bình là Trần Huy Phác xin khép con kế tự của Duyệt là Lê Văn Yến cùng với các cháu là Lê Văn Thiện và Lê Văn Nguyên vào tội trảm quyết. Hộ lý Tuần phủ Quảng Yên là Lê Dục Đức, xin trị tội những thân thuộc phạm nhân từ 16 tuổi trở lên. Còn thì đều xin y theo đình nghị.
Vua dụ rằng : “Thế đủ thấy lẽ trời sáng tỏ không sai ; đạo công tồn tại ở người ta, thực không thể bưng bít. Kẻ quyền gian gây vạ, cả thiên hạ đều giận, mọi việc ác đều dồn vào, muôn miệng cùng nói như một, đủ tỏ là cái án đích xác, nghìn năm bất dịch. Vả, tội của Lê Văn Duyệt đếm tội cũng không kể hết, nói đến đau lòng ; dù bổ áo quan mà phanh thây cũng không oan. Song nghĩ : hắn chết đã lâu, trước chịu tội âm rồi, lại đã truy đoạt quan tước, còn nắm xương khô trong mả, nay cũng chẳng thèm gia hình. Vậy sai Đốc phủ Gia Định lập tức san mồ mả thành đất phẳng và dựng cái bia đá ở trên khắc 8 chữ lớn : “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” Åv ́I ¾¤ ¤å ®® ¥ñ ªk ³B (Chỗ hoạn quan lộng quyền là Lê Văn Duyệt chịu tội chết), để nêu rõ tội danh ở sau khi chết, mà làm tỏ sáng phép nước về sau này, và để làm gương răn cho những kẻ quyền gian muôn đời. Lũ con Duyệt là Lê Văn Yến, không kể Lê Văn Duyệt là kẻ đứng đầu gây tội, chỉ kể ngay việc em hắn là Lê Văn Hán giao thông với nghịch tặc, thì luật đã có minh văn nói rõ về việc thân thuộc phải tội lây, nhưng nghĩ tên Hán chẳng qua càn dại trong một thời đi lại với giặc, nhưng có khác với những kẻ trước sau theo giặc chống lại quan quân. Lê Văn Hán đã phải tội cực hình, đủ tỏ phép nước, còn các kẻ khác thì xử vào tội trảm giam hậu cũng đủ để đền tội. Đạo dụ này cho sao lục phát đi trong Kinh và ngoài các tỉnh mỗi nơi 1 bản, khiến cho ai nấy đều biết triều đình thi hành pháp luật một mực chí công, rõ ràng cân nhắc lưỡi gươm ba thước, nghiêm cẩn nêu cao rìu búa nghìn thu”.
Bộ Lại và bộ Hình lại trích những người dưới cờ của Duyệt đã về hưu hoặc đã chết để tâu lên. Vua sai đều truy đoạt bằng sắc, chớ để bêu xấu quan chức.
Tập 05
chính biên
đệ nhị kỷ - quyển CXc
thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế
Mậu Tuất, Minh Mệnh năm thứ 19 [1838]. Mùa xuân, tháng 3, ngày Giáp Tuất, mới định quốc hiệu là nước Đại Nam.
Đình thần tâu nói : Tù giam ở ngục Gia Định mưu làm phản vượt ngục, suy tôn tội phạm phải giam là Lê Văn Sơn, tức là cháu họ tên phạm cũ Lê Văn Duyệt, con của nghịch phạm Lê Văn Hán, thế là trước sau mưu làm giặc đều từ một nhà
Lê Văn Duyệt gây nên, mầm ác không thể không trừ, các con cháu Lê Văn Duyệt là bọn Lê Văn Yên, Lê Văn Tề, Lê Văn Phước, Lê Văn Thận, Lê Văn An, Lê Hào, Lê Văn Sầm, Lê Văn Doanh 8 tên, vẫn đương giam cấm, xin xử chém cả cho hết mầm ác”.
Vua bảo rằng : “Lê Văn Duyệt là hoạn quan làm đầy tớ, chỉ dùng sai khiến ở trong cung, nguyên không phải tài năng kỳ dị, hay dũng tướng mưu thần, chẳng qua trước vì Nhà nước lắm việc, Hoàng khảo Thế tổ Cao hoàng đế ta, phàm tôi tớ trong triều, ngoài các trấn, đều sai đem quân đánh giặc, cho chóng rửa được thù thẹn, vừa gặp buổi rồng mây gặp hội, và Nhà nước sẽ bắt đầu thịnh lớn, nên trời tổ ban Phước cho, bách thần hết sức giúp, lại nhờ có mưu mô của triều đình, kế hoạch thần diệu làm việc quyết định sáng suốt, hằng năm Hoàng khảo ta, thân đem sáu quân các công thần chưa từng tự chuyên đánh dẹp, tai mắt mọi người, đều nghe thấy cả, sau khi đại định, vinh phong cho các công thần, hắn cũng vì đi ở nơi hàng trận, có công khó nhọc, lạm dự phong tước quận công, em hắn là Lê Văn Phong, làm quan đến tòng nhất phẩm, con nuôi hắn là Lê Văn Yên lại được gả công chúa cho, một nhà anh em, rất nhiều vinh hiển ơn nước hậu biết chừng nào, thế mà cậy công kiêu bậy, khinh thường hiến pháp, riêng nghĩ làm xằng, không việc gì là không làm, hằng muốn mượn cớ đem quân ra đóng ở ngoài, hy vọng nghe ngóng, hầu cho là không ai dám làm gì, đã bị mọi người tố giác, Hoàng khảo ta đã soi biết tâm tích, nhưng nghĩ hắn là một kẻ hoạn quan, ai chịu nghe theo, sẽ không làm gì được, hãy nín nhịn bỏ qua. Đến khi trẫm lên ngôi vua, tóm cả muôn việc, hắn sợ không thoả được mưu gian, liền dám đem lòng bất mãn, càn ngạo bất kính, thường thấy lộ ra lời nói và nét mặt, trẫm lại nghĩ bầy tôi cũ không còn mấy người, càng thương yêu hơn, cũng không lấy làm ngờ ghét, thế mà hắn kiêu ngạo tăng thêm, càn dỡ càng lắm, tức như việc chiêu nuôi bọn tù phạm hung ác người nhà Thanh để làm tâm Phước ; cố kết với gian thần là Lê Chất, để làm việc ngầm cùng là ngầm kén voi trâu khoẻ mạnh, đem theo đến chỗ đóng, riêng thu cả thuyền bè 6 tỉnh, coi như của mình, lại đắp thành cao, đào hào sâu, ngang với kinh sư, phàm các việc ấy đều là chứa chất lòng ác, ngầm mang lòng không theo pháp luật. Ngoài các việc ấy, tội ác còn nhiều, xét việc làm của hắn, việc gian rõ ràng, tính đốt tay không xiết được, hơn nữa giúp đỡ cho Trần Nhật Vĩnh, tàn ngược bừa bãi, hút máu mủ nhân dân 6 tỉnh Nam Kỳ, số của lót thường đến vài mươi vạn, đến khi việc vỡ lở, sợ tội đến mình, không đừng được mới xin đem Nhật Vĩnh ra chém, để tự che đậy mà nhân dân bị giày xéo nát nhừ, đã không xiết kể. Sau khi chết, lại phát xuất ra việc riêng giấu giấy đóng ấn sẵn, riêng đóng thuyền bè gỗ nam, làm rất nhiều việc không công bằng không theo pháp luật, triều đình cũng chưa nỡ hỏi đến, thế mà trong hàng ngũ của hắn, như lũ Lê Văn Khôi, Thái Công Triều, nhân thấy ngày thường dối trá lăng phạm người trên, tập thành thói quen, không còn biết có triều đình, cho nên xác thịt của hắn chưa tan hết, mà bọn Khôi đem nhau nổi loạn, giữ thành làm phản, cháu họ hắn là Lê Văn Hán cũng cùng với hắn trước sau cùng mưu, thậm chí đến bọn trẻ con chơi đùa gà chọi chó săn, không ai là không hùa theo làm loạn, để cho dân 6 tỉnh Nam Kỳ phải khổ, giặc Xiêm nhân đó xâm lấn quấy rối ngoài biên, gan óc quân dân tan tành hết cả, may nhờ trời đất thương giúp, miếu xã ban ơn, trẫm sai tướng đem quân, chỉ bảo kế hoạch, thêm được tướng có mưu, quân hùng mạnh, hợp sức cùng lòng, trước dẹp yên giặc Xiêm, sau dẹp yên thành Phiên An, lâu đến 3 năm, rồi sau mới xong việc, mà quân dân khổ cực, không biết đã bao nhiêu, nói đến không ai là không nhức đầu đau ruột, trước đã được đình thần nghị xử : lời nói và việc làm của chúng trái ngược, đáng phải tội chém 7 người, tội thắt cổ 2 người và tội sung quân 1 người, nhưng xét việc gây biến ở Phiên An, thực là tai hoạ bậc nhất, xin xử tội lăng trì xử tử và bổ quan tài, chém xác chết, để tỏ răn bảo rõ ràng. Cứ theo án ấy định, không kể tội của hắn, thân thuộc đã phải tội lây, và đem việc Lê Văn Hán cùng với giặc Khôi làm phản, thì một nhà anh em thân thuộc cũng nên phải tội chết, hiện nay chỉ cứ tên giặc Lê Văn Hán và người ở cùng một nhà là bọn Lê Văn Nguyên, Lê Văn Thiện phải xử chém mà thôi, còn người không ở cùng nhà thì hãy tạm giam cấm, các đàn bà con gái và trẻ con đều tha không phải tra bắt. Lê Văn Duyệt cũng tha chém xác cho xương khô được toàn, còn như con của tên giặc Lê Văn Hán là Lê Văn Sơn cũng còn giam cấm, thực đã quá nhờ điển lệ khoan hồng, mấy lần xét án mùa thu đình nghị và pháp quan lại đều cho là bọn Lê Văn Yên theo luật nên phải tội lây và xin xử chém, nhưng trẫm cũng chưa nỡ quyết vội, không ngờ bọn tù trong ngục lại muốn suy tôn Lê Văn Sơn, mưu theo vết xe cũ của giặc Khôi như thế, ác nghịch ngập trời, tội không tha được. Nay đình thần tâu lên, thực do ở lòng công phẫn công tâm, nếu trẫm lại tạm bợ dung cho kẻ gian, giả sử ngày sau lại sinh biến khác thì người sẽ cho trẫm là thế nào ? Cho nên không thể không theo lời xin ấy, Lê Văn Yên chuẩn cho tự chết, Lê Văn Tề, Lê Văn Phước, Lê Văn Thận, Lê Văn An, Lê Hào, Lê Văn Sầm, Lê Văn Doanh đều chém ngay, còn con của Lê Văn Yên là Lê Văn Diễn, Lê Văn Minh, con của Lê Văn Tề là Lê Văn Hợp, Lê Văn Dũng tạm tha cho tội chết, phát đi an trí ở Cao Bằng, đợi khi trưởng thành, do địa phương xét, quả là yên phận giữ phép, hay hoặc có tình trạng hung ác khác, cứ thực tâu bày, đợi Chỉ, đó là một nhà Lê Văn Duyệt bạn nghịch, ác nghiệt tự mình gây ra, tội giết không tha được, có can phạm đến đại nghĩa đại pháp, không thế không được.
Vả lại trẫm từ khi nối ngôi vua tới nay, hậu đãi các công thần, sống thì vinh, chết thì thương, đến con cháu cũng được đời đời tập ấm, có phẩm tước để nối nghiệp nhà, có mũ đai để thân được vinh hiển, ân điển ngày càng nhiều, trong ngoài vốn nghe biết, không đợi nay phải nói nhiều, giả sử phạm phải tội lỗi tầm thường, tức luật có nghị công, còn có thể lượng cho tha thứ, còn như lòng hung bạo như sài lang, hại dân hại nước, gây tai vạ với triều đình, nếu lại theo tình bỏ phép, thì sao tỏ được nghĩa xuân thu, mà tỏ bảo về sau, chuẩn cho bộ Hình đem nguyên uỷ án ấy thông dụ cho các địa phương các trực tỉnh, cho cả nước biết triều đình thưởng người có công, phạt người có tội, là do lòng đại công chí chính, không vì lỗi nhỏ mà mất cả công, cũng không vì tội to mà pháp luật phải khuất khúc, khiến cho kẻ thiện biết khuyến khích, kẻ ác biết răn chừa, làm gương để răn mãi”. Bộ Hình lại tâu nói : tội của phạm viên Lê Chất giống với tội Lê Văn Duyệt, cháu họ của Duyệt đã phát đi Cao Bằng, thì người họ để tang một năm bị tội lây của Chất là bọn Lê Luận 8 tên cũng nên phân phát đi an trí ở Lạng Sơn, Tuyên Quang, do quan địa phương quản thúc. Vua nghe theo.