Tập 5
Mậu Tuất, Minh Mệnh năm thứ 19 [1838]. Mùa đông
Quan thành Trấn Tây là bọn Trương Minh Giảng nói : “Biền binh 3 cơ An man thuộc thành ấy, trước khi bọn giặc nghịch Hải Đông gây sự chỉ biết hướng mộ triều đình, ra sức bắt giặc, trước sau sai phái, không khác lính Kinh”
Vua khen ngợi đặc cách chuẩn cho Cai đội cơ Nhất sung Quản cơ là Vũ Khiêm, Cai đội cơ Nhị sung Quản cơ là Tôn Ly, đều thưởng thụ Phó quản cơ, thí sai Quản cơ, Chánh đội trưởng cơ Tam sung Phó quản cơ là Đào Kim thưởng thụ Cai đội, thí sai Phó quản cơ. Ngoài ra bọn Suất đội đều được thực thụ. Sau lại gia ơn cho các Quản suất Tịch Biên, Khai Biên, Quảng Biên, An man và cơ Tương mục, thuộc thành Trấn Tây hằng tháng được cấp tiền lương, bắt đầu từ tháng giêng sang năm (thực thụ Chánh phó quản cơ đều mỗi tháng 3 quan tiền. Cai đội, Chánh đội trưởng, thí sai suất cơ và sung suất cơ đều 2 quan). Vua bảo Hiệp biện đại học sĩ Trương Đăng Quế rằng : “3 cơ An man ở thành Trấn Tây nguyên là người Chàm Đồ Bà ở nhờ đất ấy, mà khi có việc phần nhiều ra sức giúp triều đình, trẫm muốn cấp áo quần và tiền, để cho càng biết cảm kích phấn khởi, sợ thổ binh các cơ cho là có chỗ phân biệt, sinh ra ghen ghét”. Trương Đăng Quế tâu nói : “Đấy là ân cách của triều đình, ai dám nói xen vào, nhân nói đến Trấn Tây là đất mới phụ thuộc, việc phải sửa sang còn nhiều”.
Vua bảo rằng : “Nay hãy dần dần xếp đặt, chuyển vận lặng ngầm, để cho nhân dân ấy có lòng thành thực, hướng theo giáo hoá, quan quân có lòng hết sức làm việc, trẻ thì lớn lên, lớn thì già đi, đều tiêm nhiễm phong hoá người Kinh, rồi sau mới xử trí tất cả chỉ theo sai khiến, đó là then chốt lớn để mở đóng chế ngự”.
Vua lại mật dụ bọn Trương Minh Giảng rằng : “Trẫm nghe 3 cơ An man, từ sau khi theo quan quân đi đánh dẹp, phần nhiều bị người Thổ ghét, dần không cho ở, cho nên không có chỗ nương nhờ làm ăn, thường phải quẫn bách, việc ấy, có lẽ nào ở thành không biết. Vả lại 3 cơ ấy có lòng theo ta, chính nên vỗ về mà dùng, sao được để cho mất chỗ nhờ cậy, nay toàn hạt Trấn Tây đã thuộc bản đồ sổ sách của triều đình, không kể là dân Kinh, dân Thổ, mọi người đều được khai khẩn làm ăn, cùng nhau vui lợi, người Thổ kia sao được chiếm làm của mình, mà không cho người khác cùng làm được, huống chi hạt ấy địa thế đất tốt, nhân dân sở tại chưa chắc khai khẩn hết, lại cho 3 cơ ấy là ở nhờ đuổi đi không cho làm, có được không ? Bọn khanh nên xếp đặt cho thoả đáng, phàm biền binh 3 cơ ấy từ trước làm nhà ở nơi nào, làm ăn ở chỗ nào, đều cho nhận lấy để ở và cấy làm sinh nghiệp ở yên mãi nếu hoặc, nơi ở chưa ổn định, cũng phải chọn đất chia cấp, không để cho người Thổ được lấn áp xua đuổi, sinh ra lôi thôi thế mới được”.
Lại từ trước đến nay, ở thành tâu cử chức An phủ các phủ huyện, chỉ theo quan Phiên chọn phái, đó là theo trước mà làm, vẫn là tạm thời, từ nay trở đi phàm có khuyết chức An phủ, nên chọn người theo việc quân sai phái được việc mà cử, không để cho quan Phiên được làm ơn, gây bè đảng cố kết kéo dài, sau này xử trí thêm phiền. Các thổ quan lĩnh các phủ, huyện thổ nơi nào đã đặt quan người Kinh hoặc đổi làm Phủ uý, Huyện uý, đều cho theo quan người Kinh làm việc, không nên để tên cũ An phủ. Lại như đặt quan người Kinh ở phủ huyện, theo nghị trước : trước hết ở các hạt Hải Đông, Hải Tây, Sơn Định, Quảng Biên lần lượt cử hành thì các phủ huyện bên trong tự khắc đem nhau hướng theo giáo hoá. Nhưng xét các địa phương ấy phần nhiều là biên giới, dân Kinh ít người đi lại, quan quân không tiện đóng giữ, nếu chỉ đặt một viên huyện, thì người Man nhiều, người Kinh ít, xếp đặt cũng khó. Nay nên bàn tính hoặc ở các phủ bên trong như loại Chân Thành, Ba Xuyên, Kim Trường tiếp giáp với An Giang thì chia lập phủ, huyện, tổng, làng, đặt quan người Kinh đến ngay sửa sang, thì các địa đầu đã có trọng binh, chúng ở phía trong, hoặc có sinh lòng khác, sẽ sợ không dám hành động, trước gần rồi sau đến xa, làm dần dần cũng là kế hơn cả, nhưng sự thế tính xa có khó các ngươi cần phải trù tính kỹ lưỡng, thế nào cho ổn thoả cả thì cho một mặt tâu lên, một mặt thi hành. Bọn Giảng tâu nói : “3 cơ An man tuy nói là ở ngụ, từ trước đến nay cũng tuỳ chỗ bỏ không, dựng nhà để ở, người địa phương sở tại không đến đuổi đi, duy gần đây thấy có ghen ghét, từng đã răn bảo trước, cũng không dám tỏ ra lấn áp, nhưng đất cày cấy được, 3 cơ ấy phải lĩnh canh nộp thuế ở thổ quan, không được tự do, nên sự làm ăn sinh nhai của bọn chúng so với người thổ trước lợi lạc có không giống nhau. Xin nên xử trí dần dần. Còn việc đặt quan người Kinh ở các phủ huyện, gần đây đã ở các huyện Chân Tài, Bình Tiêm thuộc Hải Đông, Ngọc Bi thuộc Hải Tây, và My Tài thuộc Sơn Định, Hoá Di ở hơi gần thành sở, Lư An ở quanh thành, tạm đặt mỗi huyện 1 Tri huyện. Xét ra nhân tình đã thiếp phục. Nay theo minh dụ, bàn tính hai ba lần, phàm các hạt thuộc về thượng du, địa thế xa cách như Sơn Phủ, thuộc Sơn Định, Khai Biên thuộc Quảng Biên, tạm hãy làm dần ; ngoài ra như các phủ huyện Lô Việt, Tầm Vu, Thìn Tô, Lô Viên, Tầm Đôn, Tuy Lạp, Ba Man, Long Tôn, Bát Ca thuộc thành, và Ngọc Luật, Chân Thành, Ba Xuyên, Kim Trường, Ô Môn ở gần ngay An Giang, định nên lần lượt chia đặt quan người Kinh, còn như đặt ra tổng làng, tất cả công việc phải làm, chờ sau lại bàn. Lại như chức An phủ đặt trước, nên đổi làm Phủ uý, Huyện uý, cùng là chọn lấy người theo việc quân được việc để sung cư, xin đến lúc ấy theo dụ làm việc. (Tuy Lạp nguyên là Lôi Lạp đổi ra, Ba Nam nguyên là Ba Cầu Nam đổi ra, Bát Ca nguyên là Lợi ỷ Bát đổi ra, Ngọc Luật nguyên là Mật Luật đổi ra, Chân Thành nguyên là Chân Thiêm đổi ra).
Vua cho là phải.
Canh Tý, Minh Mệnh năm thứ 21 [1840], mùa thu
Bọn giặc ở huyện Nam Thái thành Trấn Tây lan tràn qua địa đầu phủ Tây Ninh, Gia Định, dân thổ và dân người Chàm đều theo đi, vây đánh đồn Quang Phong. Lính ở đồn ít, không địch nổi quân giặc nhiều, bỏ khí giới chạy. Viên Suất đội giữ đồn là Nguyễn Văn Nhiên ngoảnh lại bảo Đội trưởng là Trần Văn Nguyên rằng : “Đánh cũng chết, chạy cũng chết, ta thà đánh nhau với giặc cho đến chết”. Giặc chém đứt lá cờ của Văn Nguyên cầm tay, Nguyên cũng chạy. Nhiên bèn bị hại. Giặc ngầm sang qua sông nhánh Xỉ Khê, cách phủ thành hơn 1 dặm. Bố chính là Lê Khánh Trinh, sai Vệ uý là Trương Cầm, Phó cơ là Trần Văn Thanh, chia đường đánh ập lại, bắn chết nhiều đứa. Giặc bèn rút lui, dựa rừng làm hiểm, không chịu ra trận đối địch. Tổng đốc Nguyễn Văn Trọng được tin báo, lại phái Phó lãnh binh là Trần Nhữ Đoan, đem binh đến tiếp ứng, rồi làm bản tâu lên.
Vua dụ rằng : “Xem lời tâu về tình hình đánh dẹp, tựu trung dẫu có bắn giết được giặc, nhưng giặc lại lôi kéo xác vào rừng, chưa từng chém được thủ cấp nào, chưa đủ kể là có công. Nhưng tạm nghĩ ; trong khi đánh dẹp có biết ra sức tí chút, gia ơn thưởng cấp tiền cho biền binh có thứ bậc khác nhau. Bố chính Lê Khánh Trinh đem binh dũng hơn 1000 người, đã đến hơn 1 tuần, chưa nghe thấy chém được 1 thủ cấp, bắt 1 tên cừ khôi nào, chỉ đóng giữ ở phủ lỵ, đã lâu không có công trạng gì. Vậy tức khắc giáng 2 cấp, không cho lấy công khác khấu trừ. Nay phải đốc suất cùng với Trần Nhữ Đoan hết sức đánh bắt giặc, trong hạn 10 hôm phải chém giết hết bọn giặc cho yên lặng con đường ấy. Rồi Trần Nhữ Đoan thì tức thời tiện đường thắng đến Trấn Tây hội họp để đánh dẹp, Lê Khánh Trinh thì vẫn phải lưu lại ở Tây Ninh để vỗ về yên dân, độ mấy hôm cũng về tỉnh làm việc. Còn như Suất đội Nguyễn Văn Nhiên khi lâm nguy còn khảng khái như thế, cũng đáng nên khen, chuẩn cho truy tặng hàm Phó quản cơ, cấp tiền tử tuất gấp hai và thưởng thêm 10 lạng bạc”.
Canh Tý, Minh Mệnh năm thứ 21 [1840]. Mùa đông
Tổng đốc Định – Biên là Nguyễn Văn Trọng tiến đến phủ thành Tây Ninh, về 2 mặt tiền và hữu phủ thành, địa phận rừng rú, giặc đều dựng đồn chiếm giữ, thế rất hiểm trở bền vững. Trọng bèn phái uỷ Lãnh binh là Ngô Văn Giai, quản đốc các binh dõng, chia đường đánh dẹp, giặc bỏ đồn chạy, quân ta chém được 1 thủ cấp cắt lấy tai, đốt hết trại và rào sách của giặc. Khi kiểm lại quan binh 2 đạo, phần nhiều bị thương bị chết. Trọng đem tình trạng tâu lên, và nói : trận này sự lấy được không bù lại sự thiệt hại, xin tự nhận lỗi về điều độ chưa khéo. Lại nói : Tiết thứ kính theo dụ chỉ, dịch ra chữ Man, để hiểu dụ khắp bọn giặc. Nhưng chúng phục thư lại, đại khái nói : trong bọn có nhiều người Xiêm, người Chàm giúp đỡ, đợi khi nào được chủ nó cả trai lẫn gái 5 người về nước mới thôi. Nếu không thế, dẫu 2, 3 năm cũng không thôi. Chúng lại nói : chỉ có đánh nhau chứ không chịu hàng phục.
Vua dụ rằng : “Nhà ngươi đi chuyến này điều độ lầm lỗi, dẫu có bị tổn hại nhiều, lỗi ấy cũng khó chối. Vậy giáng 1 cấp. Duy biền binh 2 đạo, đánh được trận ấy, cũng nên lượng gia khen thưởng về mặt đằng trước, đánh phá hơi khó, thưởng chung cho 100 quan tiền. Về mặt bên hữu thưởng chung cho 80 quan. Xét ra, bọn giặc quen lấy bụi rậm làm chỗ tựa, hễ gặp quan binh, thấy ít thì nấp bắn, mà nhiều thì lẩn trốn. Từ sau hễ gặp giặc có giáp chiến đối diện mới nên bắn súng lớn để giết được nhiều, chớ nên bắn phóng vào rừng rậm phí uổng thuốc đạn. Lại nên xét kỹ cơ nghi, ra quân kỳ binh để đánh lấy được. Như nay đến kỳ lúa chín, phái nhiều người đi lùng bắt, hễ thấy giặc tụ họp chứa để ở đâu, đều đốt hết đi, ở quãng đồng núi, hết thảy những thứ ăn được như : lúa, vừng, khoai, đậu, cũng đào lấy cho hết, thì giặc không lấy đâu mà nương nhờ để sống nữa, nếu không bị bắt, cũng đến chết đói ở rừng sâu thôi.
Đến như tờ thư của giặc, lời lẽ phần nhiều khoe khoang, chắc có tên đầu mục nào xui giục làm mê hoặc. Nên để tâm dò hỏi người Thổ, xem trong đám giặc ai là người đầu mục đứng thủ mưu, tức thời treo thưởng hậu, ai bắt chém được tên thủ mưu ấy, thưởng tiền 300 quan, tên thứ yếu phạm 200 quan ; còn những đầu mục nho nhỏ hoặc 30 hay 50 quan. Liệu châm chước mà thưởng cấp, để mọi người vui lòng làm việc, giết giặc dựng công, tự khắc việc dẹp yên được dễ vậy.
Hết tập 5
Tập 5
-----
Mậu Tuất, Minh Mệnh năm thứ 19 [1838]. Mùa đông
Quan thành Trấn Tây là bọn Trương Minh Giảng nói : “Biền binh 3 cơ An man thuộc thành ấy, trước khi bọn giặc nghịch Hải Đông gây sự chỉ biết hướng mộ triều đình, ra sức bắt giặc, trước sau sai phái, không khác lính Kinh”
Vua khen ngợi đặc cách chuẩn cho Cai đội cơ Nhất sung Quản cơ là Vũ Khiêm, Cai đội cơ Nhị sung Quản cơ là Tôn Ly, đều thưởng thụ Phó quản cơ, thí sai Quản cơ, Chánh đội trưởng cơ Tam sung Phó quản cơ là Đào Kim thưởng thụ Cai đội, thí sai Phó quản cơ. Ngoài ra bọn Suất đội đều được thực thụ. Sau lại gia ơn cho các Quản suất Tịch Biên, Khai Biên, Quảng Biên, An man và cơ Tương mục, thuộc thành Trấn Tây hằng tháng được cấp tiền lương, bắt đầu từ tháng giêng sang năm (thực thụ Chánh phó quản cơ đều mỗi tháng 3 quan tiền. Cai đội, Chánh đội trưởng, thí sai suất cơ và sung suất cơ đều 2 quan). Vua bảo Hiệp biện đại học sĩ Trương Đăng Quế rằng : “3 cơ An man ở thành Trấn Tây nguyên là người Chàm Đồ Bà ở nhờ đất ấy, mà khi có việc phần nhiều ra sức giúp triều đình, trẫm muốn cấp áo quần và tiền, để cho càng biết cảm kích phấn khởi, sợ thổ binh các cơ cho là có chỗ phân biệt, sinh ra ghen ghét”. Trương Đăng Quế tâu nói : “Đấy là ân cách của triều đình, ai dám nói xen vào, nhân nói đến Trấn Tây là đất mới phụ thuộc, việc phải sửa sang còn nhiều”.
Vua bảo rằng : “Nay hãy dần dần xếp đặt, chuyển vận lặng ngầm, để cho nhân dân ấy có lòng thành thực, hướng theo giáo hoá, quan quân có lòng hết sức làm việc, trẻ thì lớn lên, lớn thì già đi, đều tiêm nhiễm phong hoá người Kinh, rồi sau mới xử trí tất cả chỉ theo sai khiến, đó là then chốt lớn để mở đóng chế ngự”.
Vua lại mật dụ bọn Trương Minh Giảng rằng : “Trẫm nghe 3 cơ An man, từ sau khi theo quan quân đi đánh dẹp, phần nhiều bị người Thổ ghét, dần không cho ở, cho nên không có chỗ nương nhờ làm ăn, thường phải quẫn bách, việc ấy, có lẽ nào ở thành không biết. Vả lại 3 cơ ấy có lòng theo ta, chính nên vỗ về mà dùng, sao được để cho mất chỗ nhờ cậy, nay toàn hạt Trấn Tây đã thuộc bản đồ sổ sách của triều đình, không kể là dân Kinh, dân Thổ, mọi người đều được khai khẩn làm ăn, cùng nhau vui lợi, người Thổ kia sao được chiếm làm của mình, mà không cho người khác cùng làm được, huống chi hạt ấy địa thế đất tốt, nhân dân sở tại chưa chắc khai khẩn hết, lại cho 3 cơ ấy là ở nhờ đuổi đi không cho làm, có được không ? Bọn khanh nên xếp đặt cho thoả đáng, phàm biền binh 3 cơ ấy từ trước làm nhà ở nơi nào, làm ăn ở chỗ nào, đều cho nhận lấy để ở và cấy làm sinh nghiệp ở yên mãi nếu hoặc, nơi ở chưa ổn định, cũng phải chọn đất chia cấp, không để cho người Thổ được lấn áp xua đuổi, sinh ra lôi thôi thế mới được”.
Lại từ trước đến nay, ở thành tâu cử chức An phủ các phủ huyện, chỉ theo quan Phiên chọn phái, đó là theo trước mà làm, vẫn là tạm thời, từ nay trở đi phàm có khuyết chức An phủ, nên chọn người theo việc quân sai phái được việc mà cử, không để cho quan Phiên được làm ơn, gây bè đảng cố kết kéo dài, sau này xử trí thêm phiền. Các thổ quan lĩnh các phủ, huyện thổ nơi nào đã đặt quan người Kinh hoặc đổi làm Phủ uý, Huyện uý, đều cho theo quan người Kinh làm việc, không nên để tên cũ An phủ. Lại như đặt quan người Kinh ở phủ huyện, theo nghị trước : trước hết ở các hạt Hải Đông, Hải Tây, Sơn Định, Quảng Biên lần lượt cử hành thì các phủ huyện bên trong tự khắc đem nhau hướng theo giáo hoá. Nhưng xét các địa phương ấy phần nhiều là biên giới, dân Kinh ít người đi lại, quan quân không tiện đóng giữ, nếu chỉ đặt một viên huyện, thì người Man nhiều, người Kinh ít, xếp đặt cũng khó. Nay nên bàn tính hoặc ở các phủ bên trong như loại Chân Thành, Ba Xuyên, Kim Trường tiếp giáp với An Giang thì chia lập phủ, huyện, tổng, làng, đặt quan người Kinh đến ngay sửa sang, thì các địa đầu đã có trọng binh, chúng ở phía trong, hoặc có sinh lòng khác, sẽ sợ không dám hành động, trước gần rồi sau đến xa, làm dần dần cũng là kế hơn cả, nhưng sự thế tính xa có khó các ngươi cần phải trù tính kỹ lưỡng, thế nào cho ổn thoả cả thì cho một mặt tâu lên, một mặt thi hành. Bọn Giảng tâu nói : “3 cơ An man tuy nói là ở ngụ, từ trước đến nay cũng tuỳ chỗ bỏ không, dựng nhà để ở, người địa phương sở tại không đến đuổi đi, duy gần đây thấy có ghen ghét, từng đã răn bảo trước, cũng không dám tỏ ra lấn áp, nhưng đất cày cấy được, 3 cơ ấy phải lĩnh canh nộp thuế ở thổ quan, không được tự do, nên sự làm ăn sinh nhai của bọn chúng so với người thổ trước lợi lạc có không giống nhau. Xin nên xử trí dần dần. Còn việc đặt quan người Kinh ở các phủ huyện, gần đây đã ở các huyện Chân Tài, Bình Tiêm thuộc Hải Đông, Ngọc Bi thuộc Hải Tây, và My Tài thuộc Sơn Định, Hoá Di ở hơi gần thành sở, Lư An ở quanh thành, tạm đặt mỗi huyện 1 Tri huyện. Xét ra nhân tình đã thiếp phục. Nay theo minh dụ, bàn tính hai ba lần, phàm các hạt thuộc về thượng du, địa thế xa cách như Sơn Phủ, thuộc Sơn Định, Khai Biên thuộc Quảng Biên, tạm hãy làm dần ; ngoài ra như các phủ huyện Lô Việt, Tầm Vu, Thìn Tô, Lô Viên, Tầm Đôn, Tuy Lạp, Ba Man, Long Tôn, Bát Ca thuộc thành, và Ngọc Luật, Chân Thành, Ba Xuyên, Kim Trường, Ô Môn ở gần ngay An Giang, định nên lần lượt chia đặt quan người Kinh, còn như đặt ra tổng làng, tất cả công việc phải làm, chờ sau lại bàn. Lại như chức An phủ đặt trước, nên đổi làm Phủ uý, Huyện uý, cùng là chọn lấy người theo việc quân được việc để sung cư, xin đến lúc ấy theo dụ làm việc. (Tuy Lạp nguyên là Lôi Lạp đổi ra, Ba Nam nguyên là Ba Cầu Nam đổi ra, Bát Ca nguyên là Lợi ỷ Bát đổi ra, Ngọc Luật nguyên là Mật Luật đổi ra, Chân Thành nguyên là Chân Thiêm đổi ra).
Vua cho là phải.
Canh Tý, Minh Mệnh năm thứ 21 [1840], mùa thu
Bọn giặc ở huyện Nam Thái thành Trấn Tây lan tràn qua địa đầu phủ Tây Ninh, Gia Định, dân thổ và dân người Chàm đều theo đi, vây đánh đồn Quang Phong. Lính ở đồn ít, không địch nổi quân giặc nhiều, bỏ khí giới chạy. Viên Suất đội giữ đồn là Nguyễn Văn Nhiên ngoảnh lại bảo Đội trưởng là Trần Văn Nguyên rằng : “Đánh cũng chết, chạy cũng chết, ta thà đánh nhau với giặc cho đến chết”. Giặc chém đứt lá cờ của Văn Nguyên cầm tay, Nguyên cũng chạy. Nhiên bèn bị hại. Giặc ngầm sang qua sông nhánh Xỉ Khê, cách phủ thành hơn 1 dặm. Bố chính là Lê Khánh Trinh, sai Vệ uý là Trương Cầm, Phó cơ là Trần Văn Thanh, chia đường đánh ập lại, bắn chết nhiều đứa. Giặc bèn rút lui, dựa rừng làm hiểm, không chịu ra trận đối địch. Tổng đốc Nguyễn Văn Trọng được tin báo, lại phái Phó lãnh binh là Trần Nhữ Đoan, đem binh đến tiếp ứng, rồi làm bản tâu lên.
Vua dụ rằng : “Xem lời tâu về tình hình đánh dẹp, tựu trung dẫu có bắn giết được giặc, nhưng giặc lại lôi kéo xác vào rừng, chưa từng chém được thủ cấp nào, chưa đủ kể là có công. Nhưng tạm nghĩ ; trong khi đánh dẹp có biết ra sức tí chút, gia ơn thưởng cấp tiền cho biền binh có thứ bậc khác nhau. Bố chính Lê Khánh Trinh đem binh dũng hơn 1000 người, đã đến hơn 1 tuần, chưa nghe thấy chém được 1 thủ cấp, bắt 1 tên cừ khôi nào, chỉ đóng giữ ở phủ lỵ, đã lâu không có công trạng gì. Vậy tức khắc giáng 2 cấp, không cho lấy công khác khấu trừ. Nay phải đốc suất cùng với Trần Nhữ Đoan hết sức đánh bắt giặc, trong hạn 10 hôm phải chém giết hết bọn giặc cho yên lặng con đường ấy. Rồi Trần Nhữ Đoan thì tức thời tiện đường thắng đến Trấn Tây hội họp để đánh dẹp, Lê Khánh Trinh thì vẫn phải lưu lại ở Tây Ninh để vỗ về yên dân, độ mấy hôm cũng về tỉnh làm việc. Còn như Suất đội Nguyễn Văn Nhiên khi lâm nguy còn khảng khái như thế, cũng đáng nên khen, chuẩn cho truy tặng hàm Phó quản cơ, cấp tiền tử tuất gấp hai và thưởng thêm 10 lạng bạc”.
Canh Tý, Minh Mệnh năm thứ 21 [1840]. Mùa đông
Tổng đốc Định – Biên là Nguyễn Văn Trọng tiến đến phủ thành Tây Ninh, về 2 mặt tiền và hữu phủ thành, địa phận rừng rú, giặc đều dựng đồn chiếm giữ, thế rất hiểm trở bền vững. Trọng bèn phái uỷ Lãnh binh là Ngô Văn Giai, quản đốc các binh dõng, chia đường đánh dẹp, giặc bỏ đồn chạy, quân ta chém được 1 thủ cấp cắt lấy tai, đốt hết trại và rào sách của giặc. Khi kiểm lại quan binh 2 đạo, phần nhiều bị thương bị chết. Trọng đem tình trạng tâu lên, và nói : trận này sự lấy được không bù lại sự thiệt hại, xin tự nhận lỗi về điều độ chưa khéo. Lại nói : Tiết thứ kính theo dụ chỉ, dịch ra chữ Man, để hiểu dụ khắp bọn giặc. Nhưng chúng phục thư lại, đại khái nói : trong bọn có nhiều người Xiêm, người Chàm giúp đỡ, đợi khi nào được chủ nó cả trai lẫn gái 5 người về nước mới thôi. Nếu không thế, dẫu 2, 3 năm cũng không thôi. Chúng lại nói : chỉ có đánh nhau chứ không chịu hàng phục.
Vua dụ rằng : “Nhà ngươi đi chuyến này điều độ lầm lỗi, dẫu có bị tổn hại nhiều, lỗi ấy cũng khó chối. Vậy giáng 1 cấp. Duy biền binh 2 đạo, đánh được trận ấy, cũng nên lượng gia khen thưởng về mặt đằng trước, đánh phá hơi khó, thưởng chung cho 100 quan tiền. Về mặt bên hữu thưởng chung cho 80 quan. Xét ra, bọn giặc quen lấy bụi rậm làm chỗ tựa, hễ gặp quan binh, thấy ít thì nấp bắn, mà nhiều thì lẩn trốn. Từ sau hễ gặp giặc có giáp chiến đối diện mới nên bắn súng lớn để giết được nhiều, chớ nên bắn phóng vào rừng rậm phí uổng thuốc đạn. Lại nên xét kỹ cơ nghi, ra quân kỳ binh để đánh lấy được. Như nay đến kỳ lúa chín, phái nhiều người đi lùng bắt, hễ thấy giặc tụ họp chứa để ở đâu, đều đốt hết đi, ở quãng đồng núi, hết thảy những thứ ăn được như : lúa, vừng, khoai, đậu, cũng đào lấy cho hết, thì giặc không lấy đâu mà nương nhờ để sống nữa, nếu không bị bắt, cũng đến chết đói ở rừng sâu thôi.
Đến như tờ thư của giặc, lời lẽ phần nhiều khoe khoang, chắc có tên đầu mục nào xui giục làm mê hoặc. Nên để tâm dò hỏi người Thổ, xem trong đám giặc ai là người đầu mục đứng thủ mưu, tức thời treo thưởng hậu, ai bắt chém được tên thủ mưu ấy, thưởng tiền 300 quan, tên thứ yếu phạm 200 quan ; còn những đầu mục nho nhỏ hoặc 30 hay 50 quan. Liệu châm chước mà thưởng cấp, để mọi người vui lòng làm việc, giết giặc dựng công, tự khắc việc dẹp yên được dễ vậy.
Hết tập 5