CĂN CỨ GIỒNG TRÀ DÊN TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN BẢO VỆ TỔ QUỐC
I. Địa hình căn cứ
Căn cứ Giồng Trà Dên xưa gần như nằm trọn vẹn trên phần đất xã Tân An. Nay Giồng Trà Dên nằm trên vùng đất thuộc các xã Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương và Phú Lộc. Xung quanh là đồng bằng, cách quận lỵ Tân Châu khoảng 5 km về phía Bắc, cách quận lỵ An Phú khoảng 10 km về phía Tây Bắc, cách Vàm Xáng Tân An khoảng 2 km, cách bờ sông Tiền và cách Kinh Xáng khoảng 2 km, vùng đất thấp 6 tháng khô, 6 tháng ngập nước.
Giồng Trà Dên xưa là nơi thiên nhiên hoang dã, có nhiều lớp tre rừng gai chằng chịt xen lẫn cây gòn gai cổ thụ và nhiều loại cây tạp hoang dại lâu đời, tạo thành khu rừng cây cao sầm uất. Từ khi có phong trào cách mạng nơi đây được dùng làm căn cứ hoạt động.
Căn cứ Giồng Trà Dên có chiều dài hơn 4 km, chiều ngang nơi rộng nhất 2 km, chỗ hẹp nhất chừng 800 mét. Rừng tre có 4 chòm tre chính: chòm tre Bà Cả, chòm tre ông Năm Mắm, chòm tre ông Quảng, chòm tre Am Lôi Thôi và nhiều cụm, nhiều lớp tre gai mọc hoang lấn dài đến biên giới Campuchia. Ngoài khu rừng tre phủ kín rậm rạp, xung quanh còn có những hầm rộng, hố sâu tự nhiên xen lẫn những con rạch như rạch Mà Ca (còn gọi rạch ông Tà), rạch Thâm Rôn (rạch bà Cả Bầu), rạch Thâm Rui, rạch Trà Dên, rạch Sẻo Mác, Láng Cá Tra, Láng Tượng, Láng Dộp, Láng Trà, Bàu Ốc, Sình Cá Rô… với các loại cây bói, lau, sậy, đưng đan xen chằng chịt. Dưới các lung, rạch... lục bình, nghể và các loại cây cỏ nước sống lâu năm hình thành một lớp dày trên mặt nước và phủ kín những khoảng rộng, hẹp, tạo thành những chòm đóm mê địa, sơ khai. Cách rừng tre không xa về phía Tây, có một quả núi thấp, người dân xa gần quen gọi là Núi Nổi, chiếm diện tích khoảng 1.000m2, Núi Nổi ở xa trông chỉ cao hơn mặt ruộng, nhưng có điều lạ là cho dù những năm lũ rất cao nước cũng chỉ ngập đến chân núi (vì thế dân gian gọi là Núi Nổi).
Theo sách Tân Châu của Nguyễn Văn Kiềm, ngày xưa nơi đây là vùng hoang vu, có nhiều thú dữ, nhiều nhất là voi, chúng thường nhập bầy ra bờ sông cái (sông Tiền) uống nước, những con đường voi đi lâu ngày tạo thành những con rạch như trên.
Rừng tre thiên nhiên này là nơi họp bí mật của các lực lượng cách mạng Tân Châu qua các thời kỳ, là nơi che chở cán bộ hoạt động tránh được sự theo dõi của địch, là căn cứ địa quan trọng của các lực lượng vũ trang đứng chân trên địa bàn, nhất là đối với lực lượng vũ trang Tân Châu trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
II. Giồng Trà Dên trước cách mạng tháng 8/1945
Trước cách mạng tháng Tám 1945, Giồng Trà Dên còn là vùng hoang vắng, nhà cửa thưa thớt. Các sĩ phu yêu nước khởi nghĩa thất bại ở nơi khác dựa vào rừng tre này ẩn náo như thầy chùa Thiện, chánh lãnh binh Trần Văn Thọ, phó lãnh binh Trần Hữu Hạnh của nghĩa quân Bờ Đồn (Vĩnh Hòa).
Các phần tử bất lương, trộm cướp từ các xã xung quanh cũng lợi dụng địa hình này trốn tránh sự truy nã của chính quyền. Đồng bào nghèo không tiền đóng thuế thân cũng vào đây trú ẩn.
Vào giữa năm 1930, chi bộ Đảng xã Tân An, Vĩnh Hòa được thành lập gồm các đồng chí Tô Thành Khải, Dương Văn Quảng, 5 Khuyên do Tô Thành Khải làm bí thư. Rừng tre thiên nhiên này là nơi họp bí mật của chi bộ xã tránh được sự theo dõi của địch. Lợi dụng địa hình này, năm 1938, đồng chí Trịnh Đình Thước, bấy giờ là ủy viên Ban cán sự Tỉnh ủy Châu Đốc, mở cuộc mít tinh có hàng trăm quần chúng từ các xã Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương, các xã ven biên giới Campuchia (Chòm Dầu, Phú Mỹ, Vĩnh Lợi Trinh...) đến dự. Đồng chí Trịnh Đình Thước tuyên truyền về sự ra đời của Đảng, kêu gọi dân chúng đứng lên đánh đuổi thực dân, phong kiến, tháo ách gông xiềng nô lệ, giành độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày. Sau phong trào Mặt trận Bình dân Pháp tan rã, Trịnh Đình Thước bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh.
(* Mặt trận Bình dân Pháp là một liên minh chính trị của các lực lượng cánh tả ở Pháp, bao gồm Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản, Chi hội Pháp của Công nhân Lao động Quốc tế (SFIO) và các chính đảng, tổ chức chính trị khác trong thời kì 1935 – 1938).
Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940, Giồng Trà Dên là nơi một số đồng chí bị Pháp truy kích về trú ẩn và bắt liên lạc hoạt động lại. Nhờ có rừng tre tự nhiên này, chi bộ xã Tân An - Vĩnh Hòa vẫn tồn tại.
Năm 1942, đồng chí Tám Dưa (Bí thư Liên tỉnh ủy miền Tây đã mở nhiều cuộc họp bí mật, duy trì tổ chức Đảng và phát triển Mặt trận Việt Minh, Thanh niên Cứu quốc... Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chánh Pháp, Thanh niên Tiền phong, một tổ chức hợp pháp được thành lập. Thanh niên tiền phong Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương, (thường gọi tắt là An Hòa Xương) ngày đêm luyện tập võ nghệ. Tín đồ các tôn giáo Hòa Hảo, Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương cũng có phong trào học võ khá sôi nổi. Trong cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền Tháng Tám 1945, hàng trăm thanh niên Tiền phong An Hòa Xương, tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của chùa Thầy Bảy Vĩnh Xương… tham gia cướp chính quyền ở Tân Châu và Châu Đốc.
III. Giồng Trà Dên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân thoát khỏi ách thực dân phong kiến, bắt đầu xây dựng cuộc sống mới. Ủy ban Nhân dân xã được thành lập gồm đại diện nhiều thành phần: đảng viên, người theo đạo Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương, những cá nhân hoạt động trong Hội tề cũ trước đây không làm khó dễ dân cũng được tham gia chính quyền. Thanh niên hăng hái gìn giữ xóm ấp. Chị em phụ nữ thành lập hội và thường xuyện họp mặt để sinh hoạt chính trị, xã hội. Các lớp bình dân học vụ xóa mù chữ được mở ra.
Niềm vui chẳng được bao lâu, ngày 23/9/1945, Pháp trở lại xâm chiếm nước ta lần nữa. Nhân dân ta lại đương đầu với trận chiến đấu kéo dài suốt 9 năm. Dưới sự chỉ đạo của Quận ủy Tân Châu, 3 xã Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương xây dựng Giồng Trà Dên thành căn cứ cách mạng.
Trong thời kỳ này Tỉnh ủy Châu Đốc lập 5 phòng tuyến ở các nơi xung yếu hình thành mặt trận đánh quân xâm lược Pháp, trong đó có phòng tuyến Vàm Kinh Xáng - Tân An. Ở đây, Tự vệ chiến đấu quân và Cộng hòa Vệ binh quận Tân Châu vận động nhân dân kéo hàng chục ghe chài có trọng tải lớn do Nhật bỏ lại chặn tàu địch từ Tân Châu qua Châu Đốc.
Ngày 23/1/1946, Pháp trở lại chiếm đóng Tân Châu, chiếm đóng nhiều đồn bót và lập lại bộ máy tề xã.
Pháp chiếm, bộ máy chính quyền nhiều thành phần của cách mạng bị phân hóa, chỉ còn lại lực lượng yêu nước theo Đảng Cộng sản Đông Dương và Thanh niên Tiền phong.
Dân quân du kích xã Tân An, Vĩnh Hòa được thành lập do đồng chí Phạm Hùng Việt (Mãng) phụ trách. Đội nữ dân quân do đồng chí Năm Lẹ chỉ huy gồm có các đồng chí Bảy Chuối, Huỳnh Thị Lào, Sáu Thất, Năm Ngôi, Ven, Sáu Bồng, Ba Mửng... cũng được thành lập góp phần bảo vệ làng xóm, bảo vệ căn cứ.
Có căn cứ, ngoài lực lượng cách mạng 3 xã Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương bám trụ, còn nhiều lực lượng khác như Chi đội 22 Công binh xưởng chế tạo vũ khí của Chi đội Hoài U. Chủ trì chùa Núi Nổi góp chuông đồng của chùa cho công binh xưởng, nhiều đồng bào đã góp mâm thau, nồi đồng để chế tạo vũ khí. Bộ đội Lê Bá, Trần Thắng, Bùi Văn Danh, Cộng hòa Vệ binh của Hùng Cẩm Hòa, lực lượng bộ đội hải ngoại Quang Trung thành lập tại Thái Lan cũng dựa vào căn cứ này xuất kích đánh địch ở các xã lân cận, đồng thời hoạt động sâu xuống các xã ở lộ đá Tân Châu - Châu Đốc.
Tháng 4/1946, Ban trừ gian của tỉnh kết hợp địa phương quân và lực lượng các xã giải tán hàng loạt bộ máy tề xã ở An Hoà Xương.
Tháng 5/1947, lực lượng Pháp cùng tay sai là bảo an quân của Lâm Thành Nguyên (Hai Ngoán) vượt kinh xáng tiến chiếm An Hòa Xương, Phú Hữu, ống Bình Linh, tất cả hơn 1.800 quân. Phía ta chỉ có dân quân du kích các xã và một tiểu đội địa phương quân. Sau hai ngày cầm cự, lực lượng cách mạng An Hòa Xương được lệnh của Quận ủy rút qua tả ngạn sông Tiền (xã Thường Phước).
Chiếm được An Hòa Xương, chúng bố trí cho Chi đội Hắc Long trang bị đầy đủ vũ khí trú đóng tại Vĩnh Xương, còn Lâm Thành Nguyên đóng tại nhà Cả Võ ở Giồng Trà Dên. Đồng bào di tản không kịp bị chúng giết hại lên đến hàng ngàn người. Bộ đội Trần Thắng từ vùng bảy núi hay tin kéo binh về cứu số đồng bào còn lại vượt sông Tiền sang Thường Thước.
Âm mưu của Pháp là chiếm đóng cho được An Hòa Xương để cắt đường liên lạc giữa khu 8 và khu 9, chủ động kiểm soát đường biên giới và hai bờ sông Tiền từ Hưng Lợi đến Tân Châu, tiến sang tả ngạn sông Tiền chiếm đóng các xã Thường Phước và Đồng Tháp Mười. Giữ được căn cứ Giồng Trà Dên, An Hòa Xương có tầm quan trọng đặc biệt, là xương sống nối liền khu 8 và khu 9.
Lực lượng cách mạng An Hòa Xương cũng như của quận Tân Châu gặp vô cùng khó khăn vì khi tránh địch sát hại, hầu hết ra đi không kịp mang theo đồ đạc, cả quần áo. Cán bộ, quần chúng lâm vào cảnh đói khổ, thiếu thuốc men, không có nhu yếu phẩm cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày. Trong khi đó địch thường xuyên tràn qua đây bố ráp, cướp phá. Tàu Pháp đánh liên miên, chỉ thấy dạng người thấp thoáng là chúng bắn. Dù vậy, chỉ sau hơn hai tháng ổn định lại tổ chức, Quận ủy Tân Châu cử tổ quân báo gồm các đồng chí Mười Tương, Bảy Phát (Bảy Chía), Yểm, Tâm trở về địa phương nắm tình hình địch, móc nối lại cơ sở, xây dựng lại địa bàn hoạt động.
Trở về vùng địch tạm chiếm lúc bấy giờ cực kỳ nguy hiểm. Đồn bót bảo an quân đóng dày đặc. Dân chúng tránh chiến tranh di tản phần lớn, tàu địch tuần tiễu trên sông 6 chiếc lên, 4 chiếc xuống. Tổ quân báo chỉ được trang bị chiếc xuồng 3 lá làm phương tiện vượt sông trên đoạn có chiều rộng gần 2 cây số. Vũ khí chỉ có gươm, giáo... Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Vì sự nghiệp cách mạng các đồng chí quyết làm tròn sứ mệnh để đưa lực lượng ta trở về bám trụ xây dựng lại căn cứ.
Vượt sông đã khó, khi về đến địa bàn xã lại càng khó hơn. Dù vậy, tổ quân báo hoàn thành nhiệm vụ, ngoài việc nắm địch tình, anh em còn rải truyền đơn gây niềm tin trong đồng bào rằng Việt Minh vẫn tồn tại không như địch phao tin. Dần dần cán bộ An Hòa Xương trở về bám địa bàn An Hòa Xương, bám Giồng Trà Dên hoạt động.
Tháng 4/1948, tỉnh Long Châu Tiền được thành lập. Các xã ghép lại như Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương thành An Hòa Xương; Long Sơn, Long Phú, Phú Vĩnh thành Vĩnh Sơn Long vì thiếu cán bộ.
Giữa năm 1948, Xứ ủy chủ trì hội nghị với đại diện Tỉnh ủy Long Châu Tiền và một số ngành liên quan như đại diện Bộ chỉ huy quân sự địa phương do Nguyễn Quang Việt và Nguyễn Phước Trẫm tham dự, quyết định giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 115 chiếm lại huyện Châu Phú B và An Hòa Xương với lực lượng: đại đội 1027, đại đội 1029, đại đội 1035, đại đội 1030 cùng các lực lượng địa phương. Chỉ huy: Nguyễn Phước Trẫm, Nguyễn Trường Can (cán bộ trực chiến đấu), Nguyễn Quang Hạn (quân báo).
Với quyết tâm chiến đấu bảo vệ đồng bào, bảo vệ căn cứ, cán bộ và nhân dân xã đã điều động trên 100 xuồng, ghe từ Mương Kinh (Thường Phước) đến điểm hành quân 16 km đường sông. Có lúc phải vác ghe xuồng trên vai vì nước mới tràn đồng, có nơi gò cao còn cạn, vất vả suốt ngày quyết có đủ phương tiện cho trận quyết chiến.
Ngày 24/8/1948, sau khi nắm chắc tình hình địch, bộ đội ta đã rầm rộ vượt sông. Khi vượt sông, một tiểu đội đại liên vì ghe chở nặng đã trôi đến gần một chốt tiền tiêu của giặc, chúng nổ súng. Ta liền bắn tỉa và sáp vào bờ chiến đấu tiêu diệt 4 tên, bắt sống 2 tên, thu 1 tiểu liên và 4 súng trường. Toàn bộ lực lượng ta lên bờ an toàn.
Sau nắm cơm vắt đỡ lòng buổi sáng, lực lượng ta được lệnh tiến công. Trời vừa tờ mờ sáng, đại đội 1027 và 1030 nã đạn cầu vòng vào phòng tuyến giặc, mục tiêu là những ổ súng máy của chi đội Hắc Long. Đại đội 1035 và 1029 ở phía sau. Mục tiêu của 1035 là chiếm địa bàn xã Vĩnh Hòa, một cù lao ở ngoài sông cách xã Tân An một lạch nước không sâu. Đại đội 1029 án ngữ chặn giặc từ Hưng Lợi. Theo kế hoạch khi mặt chính diện 1027, 1030 dồn địch đến xã Tân An thì đại đội 1029 băng đồng đánh chiến Núi Nổi và đánh thẳng vào tổng hành dinh của Hai Ngoán, nhà Cả Võ Giồng Trà Dên .
Để đối phó lại ta, giặc đã đào sẵn 8 chiến hào từ bờ sông Tiền vào trong đồng dài khoảng 800 mét. Lợi dụng chiến hào giặc, qua đợt xung phong đầu, ta đã diệt 70 tên và làm bị thương một số tên khác. Càng tiến sâu vào phía Tân An, giặc yếu dần sức chiến đấu. Đến 9 giờ, lực lượng ta đã lần lượt vượt qua 5 phòng tuyến của giặc và hình thành một thế bao vây. Tại đây chi đội “Hắc Long” tan rã. Tên chi đội trưởng bị tiêu diệt.
Đến 13 giờ, đại đội 1029 được điều động thay thế đại đội 1027 ở chính diện. Một trung đội của đại đội 1029 đụng phải một đơn vị địch từ xã Vĩnh Hòa rút chạy về tổng hành dinh. Trung đội này đã chiến đấu và đánh tan đơn vị của giặc. Một trung đội khác của 1029 trên đường băng sang chiếm Núi Nổi đã bắt gặp bộ phận tiếp tế đạn do tàu Pháp chuyển lên từ sông Hậu. Bọn này bị ta diệt gọn và ta đã thu được gần 1 tấn đạn đủ loại.
Cũng vào lúc này, đại đội 1030 đã đến đầu Giồng Trà Dên. Một khẩu trung liên 7 ly 7 của ta bố trí ngang đường cách nhà Cả Võ 3 km. Ta phát hiện toán quân của địch từ phía Tân An tiến lên liền nổ súng, 4 tên chết tại chỗ, 2 tên bị bắt sống. Sau mới biết Lâm Thành Nguyên chưa hay tin chi đôi Hắc Long bị tiêu diệt đến bắt liên lạc bị ta nổ súng. Lâm Thành Nguyên bị thương. Ta tiếp tục truy địch đến bờ Kinh Xáng thuộc xã Tân An, đến 9 giờ đêm im tiếng súng. Ta chiếm lại An Hòa Xương và Châu Phú B. Căn cứ An Hòa Xương được khẩn trương xây dựng lại.
Từ căn cứ này, lực lượng cách mạng đi hoạt động đến Tân Châu, xây dựng cơ sở ở Vịnh Đồn. Địch luôn tìm cách đánh phá để hủy diệt căn cứ, tiêu diệt cán bộ cách mạng bám trụ nơi đây. Tàu Pháp từ sông Tiền vòng vô Xép Cỏ Găng bắn đại bác vào căn cứ liên tục. Các đại đội 8 của Cò Dốt, Cò Ngượt, đại đội 33 ở Châu Đốc vượt đồng đánh vào, có ngày đánh 3 trận, nhưng căn cứ thiệt hại không đáng kể.
Năm 1949, địch đóng đồn Xép Cỏ Găng, đồn Tuần Mẹo, Núi Nổi, Rạch Bà Cả. Vùng đất này bị chia tuyến: từ Mương Sâu lên Vĩnh Xương do lực lượng cách mạng đóng, từ Mương Sâu trở xuống Vàm Xáng (khoảng 3km) địch chiếm đóng. Bấy giờ An Hòa Xương đứt liên lạc với huyện ủy (đang đóng ở Thường Phước) có khi cả tháng cũng không nhận được sự chỉ đạo cấp trên nhưng lực lượng vẫn quyết tâm bám trụ. Thiếu lương thực, được Khu ủy chi viện, nhưng gạo để lâu ngày khi nấu cơm rất khó ăn, bấy giờ anh em chiến sĩ đặt cho cái tên “gạo căm xe”. Có chén cơm “gạo căm xe” đỡ dạ, dân quân, du kích xã vừa bám đất vừa thọc sâu hoạt động đến Vịnh Đồn, đến Kinh Xáng đánh địch.
Đội nữ dân quân du kích góp phần cùng cánh nam, hợp đồng đánh tiêu diệt đồn Tuần Mẹo, chị em dùng hom dâu thiêu hủy đồn. Các chị em nữ như chị Năm Lẹ, Năm Sen, vợ chồng chín Hoàng Hải... rất can đảm cùng du kích đánh tàu Công Go của Pháp lấy được cây trung liên. Nhưng để chuẩn bị đánh lô cốt ở đuôi cồn, chị Sáu Bồng giả câu cá gần đồn để quan sát bị chúng phát hiện bắt đánh chị đến chết.
Năm 1950, để đẩy mạnh hoạt động phối hợp chiến trường, lực lượng vũ trang Tân Châu nâng lên thành Đại đội địa phương quân huyện có 150 đội viên do Trương Bình Khiêm làm Huyện đội truởng.
Nhiệm vụ của huyện đội là bảo vệ đường giao thông giữa khu 8 và khu 9. Ngoài ra còn tổ chức phối hợp với các đơn vị du kích liên xã được trang bị vũ khí để hoạt động, trong đó du kích An Hòa Xương là đội quân chiến đấu dũng cảm, đánh thắng nhiều trận.
Tháng 12/1950 huyện Phú Châu được thành lập, An Hòa Xương thuộc huyện này.
Đại đội 1035 của huyện kết hợp với du kích tấn công đại đội 14 của địch ở ống Bình Linh mở rộng căn cứ liên hoàn Giồng Trà Dên - ống Bình Linh từ An Hòa Xương đến biên giới Bắc Nam, Phú Hữu.
Lợi dụng mùa nước lũ năm 1952, địch tăng cường hoạt động ở An Hòa Xương. Pháp sử dụng lực lượng dân xã của Hai Ngoán mở cuộc càng lớn. Đại đội 1035 cùng tiểu đoàn 311 chặn đánh quyết liệt buộc chúng lui quân, ta tiến đánh lô cốt Núi Nổi, Xép Cỏ Găng, đồn Tuần Mẹo. Địch tập trung lực lượng lớn phản kích. Ta rút lui để bảo tồn binh lực. Đến hết mùa nước lực lượng Phú Châu lại trở về. Bây giờ căn cứ ống Bình Linh, Giồng Trà Dên hân hạnh đón tiếp đồng chí Lê Đức Thọ (ủy viên Trung ương Đảng) trên đường đi Nam Vang ghé thăm cán bộ, chiến sĩ Phú Châu. Chứng kiến trận chống càn vào căn cứ đồng chí đã khen ngợi anh em cán bộ, chiến sĩ, tỏ lời cảm thông sự vất của bộ đội, du kích.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, xuất phát từ căn cứ Giồng Trà Dên, bộ đội Phú Châu đánh địch nhiều trận, phá ủy nhiều lô cốt từ Vịnh Đồn đến lộ đá Tân Châu. Căn cứ vẫn giữ được cho đến ngày ký kết Hiệp định Genève.
Căn cứ Giồng Trà Dên - An Hòa Xương tồn tại trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, trong khi địch cũng quyết tâm chiếm vùng đất này đứng chân để khống chế tuyến biên giới, nhưng chúng đã thất bại. Đạt được kết quả đó trước hết Huyện ủy đã nhận thấy vi trí quan trọng của căn cứ và chỉ đạo đúng đắn, đưa cán bộ, lực lượng vũ trang huyện về bám vùng. Vai trò quyết định phải nói đến sự kiên cường bám trụ, dám hy sinh của quân và dân An Hòa Xương. Cán bộ, chiến sĩ chịu đựng gian khổ, dũng cảm, mưu trí kết hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương, đại đội 1035 đẩy lùi từng trận càn, đánh địch từ xa hạn chế chúng ruồng bố.
Để giữ vững căn cứ, hơn 30 chiến sĩ du kích hy sinh. Có người chết vì bị tù đày tra tấn dã man... Sự chiến đấu dũng cảm của quân và dân Giồng Trà Dên - An Hòa Xương là truyền thống tốt đẹp được đồng bào phát huy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sau này.
IV. Căn cứ Giồng Trà Dên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)
1 - Giai đoạn 1954 - 1960
Hiệp định Genève được ký kết. Miền Nam chuyển hướng chiến lược từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị.
Trong quá trình tiếp nhận chính quyền từ tay thực dân Pháp, Ngô Đình Diệm tiến hành thống nhất các lực lượng giáo phái, Nguyễn Giác Ngộ, Hai Ngoán, Năm Lửa lần lượt đầu hàng (riêng Ba Cụt trong lúc điều đình với Diệm bị bắt và bị tử hình ở Cần Thơ). Một số đại đội của Hai Ngoán ly khai chống Diệm... Lê Hồng Tươi thành lập tiểu đoàn Lê Văn Duyệt chiếm đóng khu vực Tân Châu, chiếm Giồng Trà Dên làm căn cứ. Trong tiểu đoàn Lê Văn Duyệt, lực lượng cách mạng được đưa vào trong ban tham mưu và được cho thành lập riêng 1 đơn vị mang tên Đại đội 4, đa số là người xã Tân An, Vĩnh Hòa, như các đồng chí Ba Tài trong ban tham mưu, Út Dũng (Huỳnh Văn Dũng, tên thường dùng là Dũng Khoe) Đại đội trưởng Đại đội 4, Bá Tùng, Sơn Sóc...
Trong hai năm 1956, 1957 Đại đội 4 làm nòng cốt cùng tiểu đoàn Lê Văn Duyệt đã chiến đấu nhiều trận chống càn của lực lượng bảo an liên đội 7 - người Nùng, tỉnh đoàn bảo an và địa phương quân Tân Châu vào căn cứ. Trong các trận chiến đấu 2 đồng chí Nhâm và Tiểu đã hy sinh. Ngày 14/7/1958 Lê Hồng Tươi đầu hàng Diệm, các đồng chí đại đội 4 bám vùng biên giới chờ đợi thời cơ trở về hoạt động. Giồng Trà Dên thuộc quyền kiểm soát của địch.
Căn cứ là địa bàn đứng chân để bung ra hoạt động, không có căn cứ không thể có phong trào cách mạng. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Tân Châu, quân dân Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương nhận rõ được tầm quan trọng đặc biệt đó. Khi được phép hoạt động vũ trang, lực lượng cách mạng Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương tiến hành xây dựng căn cứ. Cuối năm 1959 đồng chí Nguyễn Ngọc Tạc, Bí thư huyện ủy cùng các cán bộ văn phòng về ở nhà đồng chí Tuấn và các gia đình xung quanh ở ấp Vĩnh Bường xã Vĩnh Hòa, chỉ cách đồn Tam Giác khoảng 300 mét để xây dựng cơ sở, lực lượng chính trị. Du kích mật xã Tân An, Vĩnh Hòa… được thành lập.
Ngày 2/7/1960, Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ngọc Tạc, đồng chí Út Dũng, tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 510 chỉ huy, phối hợp cùng kích Tân An, Vĩnh Hòa tiến đánh hạ đồn Tam Giác (Chi bộ xã Tân An vận động được đồn phó đồn Tam Giác là Nguyễn Văn Hạnh làm nội tuyến) diệt 4 tên lính bảo an thu 3 trung liên, 7 tiểu liên, 3 carbine, 3 garant, 3 trường mas và nhiều loại đạn dược, số súng vô cùng quý hiếm trong thời điểm bấy giờ. Tên Tề bỏ chạy về quận bị gián chức. Địch phải bỏ đồn Tam Giác 6 tháng sau mới mới lập lại.
Được tin đồn Tam Giác thất thủ, địch lồng lộn, chúng cho bảo an lùng sục bắt bớ những người chúng tình nghi có liên quan móc nối nội tuyến. Các đồng chí tham gia trận đánh thoát ly kịp thời. Một số dân thường bị bắt, trong đó có anh Lúa chạy xe phôlích, chúng đem anh về quận Tân Châu đánh đập đến chết rồi lén chở đến nhà mát mộ Sư Ông phao tin anh Lúa bỏ chạy, bị bắn chết. Nhân dân vô cùng phẫn nộ, đồng chí Bảy Lưỡng, Bí thư chi bộ Tân An nhanh chóng vận động nhân dân chở xác nạn nhân đấu tranh đến quận Tân Châu. Cuộc đấu tranh có trên 150 người tham dự. Đoàn đấu tranh được bà con lao động nghèo Tân Châu hưởng ứng thành cuộc biểu tình lớn làm náo động chợ Tân Châu. Bọn lính quận không dám đàn áp.
Chuẩn bị đợt tổng khởi nghĩa chung toàn tỉnh, Huyện ủy tổ chức cuộc họp tại nhà đồng chí Hai Nga để bàn kế hoạch, địch phát hiện đến bao vây. Chúng đến sớm hơn giờ họp nên các đồng chí huyện ủy viên ở các nhà xung quanh hay tin tránh thoát. Đồng chí Mười Trí, Chánh văn phòng Huyện ủy, vợ chồng đồng chí Hai Nga bị bắt. Đồng chí Trê chạy không thoát cắn lưỡi tự tử chết.
Tiếp tục trấn áp địch, đưa thế chính trị của quần chúng lên, tiểu đoàn 510 cùng lực lượng xã do đồng chí Nguyễn Ngọc Tạc phối hợp chỉ huy bố trí trận địa tại Xép Cỏ Găng đánh lực lượng bảo an đồn Bến Nước.
Để quân địch lọt vào ổ phục kích, chi bộ xã có các đồng chí Út Ba, Mười Trạc giả vờ bắt trưởng ấp Chạp (trưởng ấp Tân Vĩnh) là gia đình cơ sở, rồi đưa mẹ và vợ ấp Chạp lên đồn báo tin. Trưa ngày 10/9/1960 hai trung đội bảo an đồn Bến Nước chia làm hai cánh tiến về ấp Tân Vĩnh (ấp Vĩnh Bường ngày nay). Một cánh quân do tên trung sĩ Đạo chỉ huy theo ven sông Tiền xuống; một cánh quân khác do tên thượng sĩ Nguyên theo lộ Vĩnh Xương - Tân An đánh bọc hậu quân cách mạng. Trận đánh kéo dài trên hai giờ. Quân ngụy rút chạy về đồn Bến Nước. Tiểu đoàn 510 đã diệt được tên Đạo và 10 lính bảo an, tên Nguyên cùng bốn tên lính bị thương, ta thu thếm 10 súng (có 1 cây trung liên). Đơn vị hy sinh 2 cán bộ tiểu đội (đồng chí Độ và đồng chí Dời), Tiểu đoàn trưởng Võ Tấn Phục (Tư Nam) bị thương nặng qua đến Thương Phước thì hy sinh.
Say trận này địch co cụm lại ở đồn bót, lực lượng các xã còn tổ chức vận động các trưởng ấp về gia đình làm ăn hoặc ủng hộ cách mạng, những tên ngoan cố bị diệt như trưởng ấp Nhật (Tân Phú), trưởng ấp Tây (Tân Vĩnh) và các tên chỉ điểm khác. Giồng Trà Dên được giải phóng, trở thành căn cứ cách mạng của xã An Hòa Xương và huyện Tân Châu. Quận Nhàn thừa nhận vùng này chỉ 10% dân số theo quốc gia.
- Bám trụ - chiến đấu - xây dựng căn cứ (1961-1964)
Lực lượng cách mạng chiếm Giồng Trà Dên, địch tiến hành nhiều thủ đoạn, cả đàn áp bằng vũ lực lẫn mị dân, mua chuộc, tách quần chúng khỏi lực lượng cách mạng, đánh phá căn cứ. Qua năm 1962, địch phản công quyết liệt, thực hiện kế hoạch lập ấp chiến lược, có 2 cố vấn Mỹ được đưa vế quận Tân Châu chỉ đạo thi hành kế hoạch.
Chúng thành lập khu trù mật Tân An bắt dân ấp Tân Phú vào khu trù mật, dân chúng không đi, chúng cho lính dỡ nhà, một mặt chúng cho bắn pháo liên miên vào ấp Tân Phú (trong kế hoạch bình định chúng khoanh vùng nơi đây là vùng tự do bắn pháo), Lê Hồng Tươi được cử làm Tổng đoàn dân vệ sau là Chánh tổng Tổng An Thành (vì am hiểu gia đình cách mạng nơi đây khi hoạt động hợp tác với đại đội 4 trước đây) để đánh phá cách mạng triệt để hơn.
Trung tá tỉnh trưởng Châu Đốc chỉ định cho quận trưởng Tân Châu “Cho hoạt động mạnh từ Kinh Xáng trở lên biên giới Vĩnh Xương để diệt trừ dân quân Việt cộng địa phương”.
Đầu tháng 5 năm 1961, tên Dẽo là du kích xã Tân An thời kỳ kháng chiến chống Pháp, sau được tổ chức cách mạng đưa vào làm nội tuyến đồn Vĩnh Xương, tên này làm phản giết chết đồng chí Trương, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 510 và đồng chí Xuân khi đi làm nhiệm vụ diệt tên đại diện Ngô Như Lễ ở Vĩnh Xương; càng lúc tên Dẽo càng hung hăng càn bố bắt bớ gia đình cách mạng, tên này được địch điều về Bến Nước đánh phá cách mạng Vĩnh Hòa.
Vừa chống càn, lực lượng địa phương quân huyện và du kích các xã vừa chủ động tấn công địch, ngày 12/5/1961, quân ta tấn công đồn Tam Giác, bọn địch huy động cả lực lượng của đồn Bến Nước, Vĩnh Xương kết hợp cùng tổng đoàn dân vệ do quận trưởng chỉ huy đến giải vây cho đồn. Trận này quân ta diệt 1 tên bảo an và bắn bị thương 2 dân vệ khác, lực lượng ta rút về căn cứ an toàn.
Đêm 31/10/1961, lực lượng địa phương quân huyện kết hợp du kích xã đánh đồn Bến Nước, ý định diệt cho được tên Dẽo qua nội tuyến Nguyễn Văn Mánh và Lê Văn Trình. Nhưng tên Mánh làm phản cho Dẽo biết tin; theo kế hoạch bàn trước, Bảy Bá, Vinh đặc công huyện làm theo mật hiệu của Mánh vào đồn liền bị Dẽo bắn chết. Lực lượng bên ngoài kịp thời rút đi, Trình bị bắt đày Côn Đảo mất tích, mẹ và vợ anh cũng bị bắt bỏ tù.
Ngày 6/1/1962, Trung đội địa phương quân huyện do đồng chí Hai Hạp chỉ huy kết hợp cùng đồng chí Út Dũng, tiểu đoàn phó 512, phục kích diệt tên Dẽo. Qua nhiều ngày theo dõi, thường ngày Dẽo đi về đồn Tam Giác nên các đồng chí chỉ huy phục kích tại Voi Tre - Hố Chuồng. Khoảng 9 giờ, thiếu úy Biết quận đoàn trưởng cùng đám lính bảo an Tân Châu đi lên phát lương, trong khi đó tên Dẽo lòn đường đồng về, anh em chiến sĩ không phát hiện được. Quân ta chuyển sang phục kích diệt tên Biết vì tên này còn ác ôn hơn cả tên Dẽo. Khoảng 11 giờ trưa, Biết cùng lực lượng tùy tùng trên 3 chiếc xe phulích đến địa điểm cây Me Chua, lực lượng ta bất ngờ bung ra chặn xe, chúng không kịp đối phó, tên thiếu úy Biết, thiếu úy Hòa và một số tên khác bị bắn chết. Lực lượng ta hy sinh đồng chí Minh, phó chỉ huy địa phương quân huyện. Sau trận đánh này, các đồn bót xung quanh co lại, Dẽo cũng không dám đi càn bố và tìm cách chuyển đổi về huyện Tịnh Biên.
Du kích và địa phương quân huyện còn phục kích đánh lực lượng địch canh gác, tuần tra, diệt những tên ác ôn, chỉ điểm như tên Ráy, tên Lê Văn Thành (chín Xứa), bắt trung đội trưởng Bán đem về căn cứ giáo dục. Trong 2 năm 1962, 1963 quân dân xã tham gia nhiều đợt phá ấp chiến lược ở các ấp Tân Hậu A, Tân Hậu B, nhổ trụ sắt, dây kẻm gai về làm xã chiến đấu ở căn cứ.
Rầm rộ và sôi động trong thời kỳ này không thể quên các cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng đấu tranh chống quy khu của nhân dân Tân An - Vĩnh Hòa từ xã đến quận Tân Châu.
Được tin địch quy khu ấp Tân Phú vào trù mật chợ Tân An, Huyện ủy cử đồng chí Sáu Tân, Ủy viên Ban Thường vụ lãnh đạo đồng bào đấu tranh.
Mùa nước 1961, viện cớ do quy khu dồn dân, dân chúng lâm vào cảnh đói khổ, chi bộ xã Tân An tổ chức kéo đến Hội đồng xã đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Lực lượng gần 300 người dân ở 2 ấp Tân Hòa và Tân Phú đấu tranh đòi giảm thuế, chống bắn pháo vào làng. Đoàn biểu tình bị đám tề xã bắt nhốt một số, ta nhờ người thân của chúng tranh thủ, lo lót tiền bạc nên chúng thả ra. Cuộc đấu tranh ở xã không đạt được kết quả, đồng bào đi đấu tranh đến quận, nhân dân ấp Tân Hòa hỗ trợ lo tàu bè, các phương tiện chở dân đi đấu tranh.
Tiếp sau cuộc biểu tình trước, Chi bộ Tân An tổ chức cho bà Phước Thiện hướng dẫn 300 người đến quận đòi cấp gạo vì nước ngập mùa màng thất bát, quận Nhàn chấp nhận theo yêu cầu của dân. Giành thắng lợi, chi bộ xã lại tổ chức cuộc đấu tranh khác được chuẩn bị chu đáo, phân chia thành từng tổ, có sự liên lạc từ trên xuống, có đảng viên theo đoàn lãnh đạo và các đồng chí có uy tín trong nhân dân như Lê Văn Bàng, Phạm Hữu Vi, Phan Thị Như, Lương Thị Huệ, Sáu Mới cùng nhiều bô lão khác với hơn 500 dân chúng tham dự. Đoàn đi trên 11 chiếc tàu kéo đến dinh quận. Quận Nhàn ra tiếp đoàn nhưng với lời lẽ xấc xược cho rằng đồng bào nghe theo lời xúi giục của cộng sản kéo biểu tình, rồi bắt nhốt vào lò tương hết nửa ngày. Riêng bà Mười Phê chúng nghi lãnh đạo cuộc biểu tình nên chúng nhốt ở quận. Một tuần sau nhân dân Tân An, Vĩnh Hòa cùng lực lượng các xã khác kéo xuống đáu tranh đòi thả bà Mười Phê, được tin dân kéo biểu tình nữa, bọn địch thả bà Mười Phê về.
Sau đó, lực lượng biểu tình còn nhiều lần tập trung ở thị trấn Tân Châu, bà con ăn mặc rách rưới như người ăn xin kéo đến dinh quận. Khi gặp tên quận trưởng, người thì tố khổ vì nạn đói rách phải đi ăn xin nhờ quận cứu tế, người kêu mất mùa đòi giảm thuế, chống quy khu dồn dân vì dân nghèo đói không tiền đi, chống bắn pháo vào làng… nếu tiếp tục bắn pháo thì người dân không sao yên ổn làm ăn phải chịu cảnh đói khổ, nhưng tên quận Nhàn ác ôn lại ra lệnh bắt giam số người đó tại lò tương Chương Hưng. Với tình thế đó, đồng bào ta kéo tới rất đông để tiếp tục tố khổ. Dù bị bắt hết lớp này đến lớp khác, đồng bào vẫn kiên quyết đấu tranh. Đồng bào và cơ sở thị trấn tổ chức cơm nước để ủng hộ cho đoàn biểu tình đang bị nhốt. Mặt khác binh chánh vận của ta cố gắng đến tranh thủ với tên Nhàn để chúng thả đồng bào ra. Tên Nhàn vẫn ngoan cố cho xe chở đồng bào bỏ bên núi Sam. Ban lãnh đạo cuộc biểu tình kịp thời tổ chức lại hàng ngũ chỉnh tề và sinh hoạt với nhau là vừa qua mình biểu tình bất hợp pháp với chúng, bây giờ chúng đã tạo cho ta có cơ hội biểu tình với thế hợp pháp hơn. Đoàn biểu tình kéo bộ về Châu Đốc vừa đi vừa hô vang những khẩu hiệu đấu tranh khiến đồng bào hai bên đường ra thăm hỏi rất đông, làm ta có dịp tuyên truyền hơn nữa. Ngụy quyền bấy giờ không có lý do gì cản được. Đồng bào cơ sở Châu Đốc tiếp tế cơm nước và lo tàu đưa đoàn biểu tình về. Qua sự việc này, quận Nhàn bị tỉnh trưởng quở trách vì để dân kéo biểu tình đến Châu Đốc. Biểu tình trực tiếp bị địch đàn áp, chi bộ xã Tân An tổ chức biểu tình gián tiếp bằng hình thức đi chợ nhồi. Đi chợ nhồi là hình thức cùng nhau đi chợ thật đông, có ngày vắng lặng không đi. Đến chợ chị em than nghèo kể khổ rồi làm công tác binh vận. Gặp lính địch bà con tác động tinh thần cho chúng rã ngũ…
Khí thế cách mạng đang lên, Ban Tuyên huấn huyện kết hợp cùng lực lượng địa phương quân huyện, chi bộ các xã tổ chức cuộc biểu tình chào mừng ngày Quốc Khánh 2/9/1961 trên sông Kinh Xáng, Ban tổ chức vận động tàu khách Tân An - Châu Đốc tham gia diễu hành, cùng số tàu cơ sở xã Tân An, số lượng tàu đến 11 chiếc với 500 quần chúng tham dự. Lá cờ Mặt trận được giương lên, bà con hô vang khẩu hiệu “Đả đảo Ngô Đình Diệm”, “Hồ Chí Minh muôn năm” vang cả khúc sông. Đồng chí Lương Văn Khách (Bảy Hà) Trưởng Ban Tuyên huấn huyện phát loa kêu gọi bà con đứng lên đấu tranh đánh đổ chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Bọn địch ở Tân An hoảng hốt, bỏ chạy đến quận lỵ Tân Châu. Bà con hai bên bờ sông ra xem cuộc diễu hành. Nhiều thanh niên hăng hái bơi xuồng theo.
Cuộc biểu tình diễn ra giữa ban ngày trong vùng địch kiển soát chứng tỏ lực lượng cách mạng đã phát triển khá mạnh. Đồng bào càng tin tưởng, ủng hộ cách mạng, xây dựng căn cứ.
Mùa nước năm 1961, căn cứ Giồng Trà Dên đón tiếp đồng chí Nguyễn Thị Định bấy giờ bà là Khu ủy viên Khu 8 đi khảo sát Bảy Núi ghé qua. Bà được bảo vệ an toàn trong thời gian dừng chân nơi đây.
Năm 1962, địch tiếp tục mở hàng trăm cuộc càn lớn nhỏ vào căn cứ, đánh phá ấp chiến đấu Tân Phú, Tân Thạnh. Nhiều cuộc đụng độ giữa lực lượng du kích xã, địa phương quân huyện Tân Châu - An Phú xảy ra. Anh em chiến sĩ chiến đấu dũng cảm bảo vệ từng cụm tre, từng hào chiến đấu. Nhiều anh em chiến sĩ hy sinh, trong trận càn ngày 29/12/1961 âm lịch (3/2/1962) đồng chí Minh Mẫn du kích xã và đồng chí Tư Dương cán bộ tuyên truyền huyện bị bắn chết, đồng chí Tư Dương còn bị chúng chặt đầu. Đồng chí Nguyễn Văn Rỡ du kích mật hướng dẫn tiểu đoàn về đánh khu trù mật, vì lộ đội hình, đồng chí Rỡ bị bắt tại sau ấp Vĩnh Thạnh. Tên Hữu Ý, đại đội trưởng biệt kích, đánh đập đồng chí rất dã man nhưng đồng chí Rỡ không khai báo điều gì, tên Hữu Ý mổ bụng đồng chí Rỡ lấy mật ăn. Các đồng chí Trắng, Đào Văn Năm, Đức, Lờ bị phát hiện hầm bí mật, địch bắt giải về Tân Châu tra khảo, nhưng cả bốn đều giữ vững khí tiết, không khai báo cơ sở, chúng giải về Bến Nước và bắn chết các anh ở Gò Chuối để đe dọa nhân dân trong vùng. Ngoài ra còn các đồng chí khác hy sinh như Lương Văn Ben, Nguyễn Văn Mỉnh (Điệp), Lư Văn Chỉ (xã đội trưởng), Nguyễn Văn Cáo (Cò Lũy) Chi ủy viên xã Tân An. Các đồng chí du kích như Triết, Ái, Vinh, Châu, Năm lần lượt hy sinh. Một số đồng chí khác bị bắt và số thoát ly khỏi xã.
Thời gian từ 1961 – 1964 là thời kỳ gay go, đấu tranh quyết liệt để giữ vững căn cứ Giồng Trà Dên, ta và địch giành giật nhau nhiều lần, đồng bào, lực lượng vũ trang huyện, du kích các xã hy sinh nhiều.
- Chiến đấu bảo vệ căn cứ 1965 - 1969
Qua những năm chiến đấu quân dân An Hòa Xương đã có những kinh nghiệm quý báu trong cách thức xây dựng căn cứ. Chi bộ xã Tân An vận động dân bỏ đất trống xung quanh căn cứ cho cây dại mọc lên um tùm, trồng thêm nhiều cây rừng làm vành đai để gài trái. Những gia đình có đất xung quanh căn cứ vui vẻ hiến đất. Anh em du kích và quần chúng tham gia làm ô chiến đấu, hầm chông, làm chiến hào.
Từ năm 1965 - 1967, hơn 10.000 mét chiến hào trong rừng tre được đào dưới tầm pháo địch, trung bình mỗi đêm chúng bắn vài ba chục đạn pháo vào căn cứ nhưng quần chúng vẫn có mặt vài trăm người tham gia đào công sự, ô chiến đấu, làm chòi canh giữa bụi tre, đào hầm gài chông xung quanh căn cứ gắn bảng “cấm các em bé lại gần” hay “binh sĩ dừng bước, để Mỹ đi trước”…
Có ô chiến đấu lực lượng du kích Tân An, Vĩnh Hòa được củng cố và phát triển. Đồng chí Năm Trung bí thư xã Tân An, đồng chí Đỗ Sơn Hà xã đội trưởng phát triển du kích xã lên 18 tay súng gan dạ, các ấp đều có du kích mật được trang bị vũ khí đầy đủ có thể đủ sức chống các cuộc càn quét của giặc.
Ngày 30/11/1964, 1 tên cố vấn Mỹ chết và 5 tên lính bị thương vì nhổ hầm chông ở am Lôi Thôi. Tên Lê Hồng Tươi đi khảo sát trận đánh ở Vĩnh Xương cùng 1 tên cố vấn Mỹ bị lực lượng địa phương quân huyện bắn pháo gần đồn diệt chết cả hai. Đồng bào An Hòa Xương nhẹ bớt được một tên địch nguy hiểm.
Năm 1965, địch tiến hành công tác “Mặc Lan” tiêu diệt lực lượng địa phương quân huyện và du kích ở Giồng Trà Dên.
Tháng 3/1965, 1 trung đội địch ở đồn Tam Giác kết hợp 1 trung đội khác tấn công vào ô chiến đấu rạch Ông Tước, du kích diệt 3 tên lính đồn Tam Giác. Địch rút lui.
Ngày 25/11/1965, 1 tiểu đoàn Sư đoàn 9 kết hợp cùng lực lượng địa phương càn vào căn cứ. Để chuẩn bị cho bộ binh tràn vào, máy bay phản lực đánh 4 lượt bom hơn 120 quả lớn nhỏ. Pháo từ tàu trên sông Tiền, từ cụm pháo An Phú bắn tới tấp trên 200 quả. Cây cối, rừng tre bị bật gốc ngã nghiêng, nhà dân xung quanh bốc cháy. Dứt đợt bom địch tràn vào. Với quân số ít hơn địch cả trăm lần, chỉ có 1 trung đội địa phương quân huyện và du kích xã, các đồng chí thực hiện chiến thuật nằm im chờ địch vào sâu. Sau khi đánh 4 đợt bom, chúng chia đội hình ra làm hai phía tiến sâu vào chòm tre ông Bảy Lưỡng và rạch ông Tước. Với tinh thần dũng cảm, các chiến sĩ bám công sự, dõi theo đội hình của địch đợi lệnh chỉ huy nổ súng. 4 giờ chiều các chiến sĩ ta nổ súng đồng loạt. Chiếc trực thăng đầm già đảo vòng bắn bom khói chỉ điểm đánh đợt bom thứ 5. Đồng chí Tư Phong ra lệnh cho anh em chiến sĩ mở đường cho địch rút. Trong trận này ta hy sinh 3 đồng chí và bị thương 2 chiến sĩ khác. Về phía địch, Sư đoàn 9 chết và bị thương hơn 30 tên, đặt biệt diệt được tên Uông đại đội trưởng biệt động. Sau trận chống càn lớn này, nhân dân chiến sĩ có niềm tin sẽ giữ được căn cứ.
Năm 1966, địch tăng cường đồn bót xung quanh căn cứ, đồn trung tâm cách chợ Tân An 1 km do 1 đại đội biệt kích đóng giữ, 1 cụm pháo 2 khẩu 105 ly. Chúng lập lại xã Vĩnh Hòa, tách ra khỏi xã Tân An. Mỗi xã có một cuộc cảnh sát do 1 sĩ quan cảnh sát chỉ huy. Căn cư Giồng Trà Dên vẫn là mục tiêu chúng tiêu diệt. Chúng bắn pháo hàng đêm vào căn cứ. Chỉ có khi nào lực lượng của tỉnh, của khu về chúng mới dám tấn công vào.
Từ năm này, lực lượng địa phương quân huyện thường xuyên có mặt tại căn cứ để đi hoạt động sang các xã Vĩnh Xương, Vĩnh Hậu, Vĩnh Lộc, Long Phú. Bộ đội tỉnh do các đồng chí Tám Sử, Năm Sương, Tư Khai, Sáu Sên chỉ huy thỉnh thoảng đưa cả tiểu đoàn về đứng chân. Khi bộ đội về đây, đồng bào Giồng Trà Dên đón tiếp, cung cấp lương thực, đóng góp tài chánh, tham gia dân công, tải đạn, tải thương và đưa con em vào lực lượng vũ trang.
Quân dân ta đánh địch không chỉ chiến đấu vũ trang mà cả cả về chính tri, binh vận. Đồng chí Huỳnh Thị Lào vận động Mạnh, lính đồn biệt kích, đổ axít vào khẩu pháo để phá hủy. Nhưng vì axít quá loảng nên 2 khẩu pháo chỉ hư chút ít. Mạnh, Chen giả vờ nhậu say đánh nhau với 3 tên Mỹ (cố vấn đồn) và nhốt chúng vào thùng phuy. Đầu năm 1967, đại đội biệt kích của Hữu Ý vừa thành lập đóng tại đồn trung tâm. Ngày ra mắt, gió thổi cột cờ bị gãy, nhân sự kiện này ban binh vận huyện chỉ đạo cho bộ phận đấu tranh chính trị của xã do bà Tư Trầm dẫn đầu, tác động tinh thần mê tín của địch; bà Tư Trầm cho rằng ngày đầu tiên xui như vậy sẽ bị chết hết. Sau đó cả đại đội sợ quá tự tan rã. Bà Tư Trầm được tỉnh tặng bằng khen.
Vào 9/1966, lợi dụng mùa nước nổi Trung đoàn 14 của Sư đoàn 9 địch kết hợp cùng nghĩa quân, có pháo binh yểm trợ bao vây căn cứ Giồng Trà Dên. Chúng dọa sẽ nhanh chóng tiêu diệt “Việt cộng” ở căn cứ trong trận tấn công này. Sáng sớm, chúng tập trung hỏa lực cho pháo bắn cấp tập để dọn đường, bộ binh tấn công từ rạch Lôi Thôi. Dù lực lượng ít hơn địch nhiều lần, hỏa lực địch mạnh, chiến sĩ địa phương quân huyện và du kích các xã bám địa hình, nhờ vùng đất quen thuộc, nhờ rừng tre che chở, quân ta nhanh chóng phản công địch. Hết đợt xung phong này, đến đợt xung phong khác của địch đều bị đẩy lùi. Đến chiều, bọn chúng không chiếm được mục tiêu và cho rút quân. Gần đại đội địch vừa chết vừa bị thương trong đó có 3 sĩ quan. Bọn địch hết dám nghênh ngang. Có một chuyện khá thú vị, số là khi tạm nghỉ, một tên đại úy bạt tay tên lính cần vụ vì tên này mời anh ta ăn cơm theo thói quen gọi cấp bậc, anh ta chửi thề nói đừng gọi như vậy sợ du kích nghe bắn tỉa.
Trong năm 1967, địch liên tiếp mở cuộc càn vào căn cứ với lực lượng của tiểu khu Châu Đốc, biệt khu 44 nhằm làm tiêu diệt lực lượng cách mạng. Tổ chức nhiều cuộc hành quân mang tên Thất Sơn đánh vào căn cứ dài ngày. Mỗi trận chỉ cách nhau hai hay ba ngày, có đợt kéo dài một tuần lễ.
Sau đợt đánh kéo dài tuần lễ, hai ngày sau, tức là ngày 5/7/1967, tiểu khu Châu Đốc phối hợp với chi khu Tân Châu mở cuộc hành quân Thất Sơn 1967 với lực lượng tham dự gồm có sư đoàn 9, 2 đại đội địa phương quân, 5 trung đội nghĩa quân và giang đoàn 26 xung phong, có trọng pháo yểm trợ, trong khi đó lực lượng cách mạng chỉ có 1 trung đội địa phương quân huyện do đồng chí Tám Bê chỉ huy và du kích xã hỗ trợ bên ngoài. Dù lực lượng đông đảo với 6 đợt bom hàng trăm quả bắn vào căn cứ, bộ đội huyện, du kích các xã chưa hết mệt mỏi sau đợt chống càn dài ngày, nhưng đã chiến đấu ngoan cường làm địch thiệt hại nặng: 13 tên chết, có 1 đại úy (tên Tệt) và hàng chục tên khác bị thương. Địch kéo ra ngoài 300 mét gọi máy bay đến bắn, ta hy sinh đồng chí Quang. Sau đó địch bắn pháo đến chạng vạng. Tên chỉ huy cử ông Bảy Nhơn vào căn cứ điều đình ngưng bắn cho chúng lấy xác, không tiếp tục đánh nữa.
Vì lòng nhân đạo ta cho chúng vào lấy xác. Xong, chúng kéo ra bờ sông Vĩnh Hòa rút binh. Chấm dứt cuộc càn Thất Sơn vào Giồng Trà Dên. Vào cuối tháng 10/1967, lực lượng địa phương quân huyện cùng du kích xã Phú Vĩnh phá lộ Tân Châu - Châu Đốc, địa phương quân huyện dự định đánh pháo vào dinh quận Tân Châu và khu gia binh nhưng không thành.
Ngày 30/10/1967 Sư đoàn 9 lại tổ chức trận càn vào căn cứ Giồng Trà Dên, lực lượng ta ở căn cứ chỉ có 1 tiểu đội đặc công địa phương quân và 1 tiểu đội du kích. Đồng chi Năm Trung bí thư, đồng chi Sơn Hà xã đội trưởng thay nhau chỉ huy. Trận càn kéo dài 3 ngày. Ngày thứ nhất ta không nổ súng chỉ gài bãi chết. Ngày thứ hai, địch trở lại, vì gió mùa đông bắc, lục bình trôi dạt vào bìa căn cứ, chúng mắc kẹt đám lục bình chìm xuồng chết một số tên. Thừa cơ hội đó, lực lượng cách mạng nổ súng làm chúng chết và bị thương trên 30 tên. Trung đội biệt kích của tên Phát lọt vào bãi chết, mìn nổ, chỉ còn vài tên sống sót, có 2 cố vấn Mỹ thiệt mạng. Du kích hy sinh 2 đồng chí.
Địch bắn pháo liên miên, quân ta không thể co cụm lại căn cứ vì dễ bị trúng pháo, Huyện ủy chỉ đạo các xã Tân An, Vĩnh Hòa ,Vĩnh Xương huy động lược lượng mở rộng căn cứ, tu bổ lại các ô chiến đấu, đào đắp lại chiến hào bị pháo bắn phá, tăng cường thêm tuyến đường cộ Cây Khế và rạch Ông Tà. Hỗ trợ cho Vĩnh Lộc xây dựng đám găng Ô Trích, đám găng Tư Nhen, đám găng Ba Lùn thành những lõm căn cứ giữa cánh đồng 5 xã tạo thế hỗ trợ cho Giồng Trà Dên và làm chủ cánh đồng 5 xã. Làm ô chiến đấu gần đồn bót địch, ở những đám tre thưa là những nơi mà địch ít nghi ngờ đến.
Căn cứ được mở rộng, tạo thế liên hoàn, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tấn công Xuân Mậu Thân.
Cuối năm 1967, tiểu đoàn 3 mang danh nghĩa đạo Hòa Hảo (tiểu đoàn của sư thúc Huỳnh Văn Trí) được thành lập để mở rộng vận động đồng bào Hòa Hảo. Chi bộ xã Tân An đưa đồng chí Năm Trung (bí thư xã), Ba Hài, Tư Nhị cùng nhiều du kích khác gia nhập. Đồng chí Đỗ Sơn Hà thay đồng chí Trung làm bí thư xã, lãnh đạo.
Được tin tiểu đoàn của ông Mười thành lập ra mắt, một số chức sắc tôn giáo, đồng bào vùng căn cứ vô cùng phấn khởi, tin tưởng cách mạng sẽ đoàn kết dân tộc, lương giáo đánh đuổi kẻ thù chung. Nhân dân đã góp 500 giạ gạo cho tiểu đoàn 3 và sẵn sàng tham gia dân công hỏa tuyến, phục vụ chiến trường tải đạn, tải thương… mỗi chuyến có hàng trăm người.
Chuẩn bị cho cuộc võ trang tuyên truyền vùng O, hơn 10 tấn súng ống, đạn dược được chuyển về căn cứ, tình báo địch theo dõi, phát hiện. Ngày 18/3/1968, đặc khu 44 mở cuộc hành quân đánh vào căn cứ với quân số 2 tiểu đoàn của sư đoàn 9 và lực lượng địa phương quân, nghĩa quân đóng tại Tân An có pháo binh yểm trợ. Trong khi đó lực lượng cách mạng có 2 tổ trinh sát, cùng dân công và du kích Tân An ở bên ngoài. Đồng chí Chín Công (UVTV Huyện ủy) chịu trách nhiệm hậu cần cho chiến dịch đi vùng O cùng ban chỉ huy đại đội tổ chức cuộc chống càn. Sau đợt pháo, địch chia nhiều mũi tiến công. Lực lượng của sư đoàn 9 chiếm được một chiến hào. Ban chỉ huy ổn định lại quân số tổ chức phản công. Tổ trinh sát của đồng chí Tùng đánh quân tên Tám Đền, hai bên quần nhau, có lúc giữa ta và địch cách nhau chừng 100 mét. Pháo địch bắn dữ dội, lửa cháy, đồng chí Sáu Thạch, Năm Thơ, Tám Hồng bất chấp gian nguy ra dập lửa. Đến 3 giờ chiền địch rút quân. Theo báo cáo của địch, trong trận này chúng chết 8, bị thương 5 người. Về phía cách mạng, dù bom đạn tơi bời, nhưng nhờ có chiến hào, rừng tre che chở, không ai hy sinh hoặc bị thương. 5 tấn vũ khí đạn dược được bảo toàn.
Rạng sáng ngày 24/3/1968, địa phương quân huyện pháo kích vào Chi khu Tân Châu. Quân ta triển khai lực lượng tại cây số 5 xã Long Sơn và chiếm giữ đoạn đường ở cây số 3 thuộc lộ đá Tân Châu - Châu Đốc. Tiểu đoàn 1 lập trận địa dài từ cây số 14 đến 16 xã Phú Lâm, bao vây đồn Tân Phú (số 15), dùng DKZ 75 và súng phun lửa diệt đồn. Trong vùng đóng quân, lực lượng chính trị cùng phối hợp cùng bộ đội phát động quần chúng tín đồ Hòa Hảo trừ gian, phá tề, họp mít tinh, treo biểu ngữ, rải truyền đơn. Lần đầu tiên kể từ lúc kháng chiến chống Pháp, bộ đội cách mạng có mặt tại vùng này, tạo chuyển biến nhận thức, niềm tin và khí thế cách mạng ở vùng O.
Ngày 26/3/1968, lực lượng vũ trang tuyên truyền ở vùng O rút quân. Du kích xã Tân An tổ chức án ngữ ở ấp Tân Hậu A1, mở đường cho lực lượng tỉnh rút về căn cứ. Khi đến căn cứ Giồng Trà Dên, các Tiểu đoàn 1, 2 rút về căn cứ B1, Tiểu đoàn 3 tiếp tục ở lại.
Ngày 29/3/1968 tiểu khu Châu Đốc phối hợp cùng chi khu Tân Châu càn vào căn cứ có phi cơ yểm trợ. Chúng bắt dân các xã khác đến đốn tre, phá địa hình nhằn thực hiện kế hoạch chiếm giữ dài ngày. Quân dân ta đoàn kết một lòng bám trụ chiến đấu với địch. Cuộc hành quân kéo dài chỉ một tuần lễ buộc phải chấm dứt. Kế hoạch thất bại, chúng quay sang khủng bố gia đình cơ sở, ngày 10/4/1968, lực lượng cảnh sát chi khu Tân Châu đến xã Vĩnh Hòa bắt 13 người chúng tình nghi “tuyên truyền cho Việt Cộng”.
Cuối tháng 9/1968, địch lại tiếp tục kế hoạch phá địa hình căn cứ. Chúng vừa bắt dân đi phá, vừa cho 4 xe ủi đất đến ủi rừng tre. Một binh sĩ đại đội 157 địch đạp mìn chết và 1 tên bị thương ngay trong ngày đầu. Lực lượng du kích xã bố trí đánh xe ủi, 1 chiếc bị hư. Địch rút quân. Rừng tre vẫn chưa thiệt hại bao nhiêu. Địch rút đi, quân dân Tân An, Vĩnh Hòa ra sức sửa chữa lại ô chiến đấu cũ, làm thêm ô chiến đấu mới, bảo vệ căn cứ an toàn, làm bàn đạp cho tỉnh chuẩn bị mở các cuộc võ trang tuyên truyền vận động đồng bào Hòa Hảo ở huyện Phú Tân (huyện Phú Tân được thành lập vào tháng 8/1948). Đồng bào náo nức cung cấp lương thực, tham gia dân công, tổ chức xuồng ghe cho bộ đội vượt sông Kinh Xáng.
Ngày 23/2/1969, lực lượng võ trang tỉnh và địa phương quân huyện tiếp tực tổ chức đợt trang tuyên truyền, lực lượng xã chịu trách nhiệm án ngữ tại Kinh Xáng suốt chiến dịch tư ngày 23 đến 28/2/1969, du kích xã đã hoàn thành nhiệm vụ, giữ vững trận địa cho đoàn đi về căn cứ Giồng Trà Dên an toàn. Trong ngày 24/2 máy bay địch đến bắn phá Giồng Trà Dên làm 52 nhà dân bị cháy rụi, 1 người dân chết và 3 người bị thương.
Ngày 16/3/1969, lực lượng ta tổ chức đợt võ trang tuyên truyền lần thứ ba trong năm, hàng trăm đồng bào tham gia dân công, dù bị địch đe dọa tù đài, lòng dân không nao núng.
Ngày 12/5/1969, Ban chỉ huy lực lượng vũ trang huyện đưa quân về Giồng Trà Dên và xã Vĩnh Hòa đứng chân. Bấy giờ, bọn tề xã hoang mang đến cực độ, nhiều tên không dám ngủ nhà, hàng đêm chúng phải vào các cứ điểm phòng vệ dân sự hoặc ngủ tại hội đồng xã. Hoạt động của chúng co lại.
Đến tháng 6/1969, khi lực lượng vũ trang tỉnh hoạt động mở vùng biên giới, địch tập trung lực lượng chủ lực, biệt kích đánh phá ác liệt vào căn cứ Giồng Trà Dên, Giồng Găng, Ô Trích… đánh bật lực lượng cách mạng ra khỏi căn cứ, cho xe ủi đất ủi ngã hết rừng tre, sau đó dùng máy bay bắn bom dầu đốt phá địa hình. Chúng đóng thêm đồn Núi Nổi. Bọn lính nghĩa quân thường cải trang thành nông dân trà trộn vào các trại ruộng của quần chúng để phát hiện cán bộ ta. Mất căn cứ, tình hình căng thẳng, phong trào quần chúng xuống, nhất là thời điểm địch thiết lập xong các tổ chức Phụng Hoàng, Thiên Nga quyết tiêu diệt hạ tầng cơ sở cách mạng. Chúng lập bảng trận liệt (dân chúng quen gọi bảng bìa đen) ghi tất cả ai trong địa bàn từng xã thoát ly hoặc “nằm vùng” để tìm cách truy tìm bắt bớ.
## CĂN CỨ GIỒNG TRÀ DÊN TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN BẢO VỆ TỔ QUỐC
### I. Địa hình căn cứ
Căn cứ Giồng Trà Dên xưa gần như nằm trọn vẹn trên phần đất xã Tân An. Nay Giồng Trà Dên nằm trên vùng đất thuộc các xã Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương và Phú Lộc. Xung quanh là đồng bằng, cách quận lỵ Tân Châu khoảng 5 km về phía Bắc, cách quận lỵ An Phú khoảng 10 km về phía Tây Bắc, cách Vàm Xáng Tân An khoảng 2 km, cách bờ sông Tiền và cách Kinh Xáng khoảng 2 km, vùng đất thấp 6 tháng khô, 6 tháng ngập nước.
Giồng Trà Dên xưa là nơi thiên nhiên hoang dã, có nhiều lớp tre rừng gai chằng chịt xen lẫn cây gòn gai cổ thụ và nhiều loại cây tạp hoang dại lâu đời, tạo thành khu rừng cây cao sầm uất. Từ khi có phong trào cách mạng nơi đây được dùng làm căn cứ hoạt động.
Căn cứ Giồng Trà Dên có chiều dài hơn 4 km, chiều ngang nơi rộng nhất 2 km, chỗ hẹp nhất chừng 800 mét. Rừng tre có 4 chòm tre chính: chòm tre Bà Cả, chòm tre ông Năm Mắm, chòm tre ông Quảng, chòm tre Am Lôi Thôi và nhiều cụm, nhiều lớp tre gai mọc hoang lấn dài đến biên giới Campuchia. Ngoài khu rừng tre phủ kín rậm rạp, xung quanh còn có những hầm rộng, hố sâu tự nhiên xen lẫn những con rạch như rạch Mà Ca (còn gọi rạch ông Tà), rạch Thâm Rôn (rạch bà Cả Bầu), rạch Thâm Rui, rạch Trà Dên, rạch Sẻo Mác, Láng Cá Tra, Láng Tượng, Láng Dộp, Láng Trà, Bàu Ốc, Sình Cá Rô… với các loại cây bói, lau, sậy, đưng đan xen chằng chịt. Dưới các lung, rạch... lục bình, nghể và các loại cây cỏ nước sống lâu năm hình thành một lớp dày trên mặt nước và phủ kín những khoảng rộng, hẹp, tạo thành những chòm đóm mê địa, sơ khai. Cách rừng tre không xa về phía Tây, có một quả núi thấp, người dân xa gần quen gọi là Núi Nổi, chiếm diện tích khoảng 1.000m2, Núi Nổi ở xa trông chỉ cao hơn mặt ruộng, nhưng có điều lạ là cho dù những năm lũ rất cao nước cũng chỉ ngập đến chân núi (vì thế dân gian gọi là Núi Nổi).
Theo sách Tân Châu của Nguyễn Văn Kiềm, ngày xưa nơi đây là vùng hoang vu, có nhiều thú dữ, nhiều nhất là voi, chúng thường nhập bầy ra bờ sông cái (sông Tiền) uống nước, những con đường voi đi lâu ngày tạo thành những con rạch như trên.
Rừng tre thiên nhiên này là nơi họp bí mật của các lực lượng cách mạng Tân Châu qua các thời kỳ, là nơi che chở cán bộ hoạt động tránh được sự theo dõi của địch, là căn cứ địa quan trọng của các lực lượng vũ trang đứng chân trên địa bàn, nhất là đối với lực lượng vũ trang Tân Châu trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
###II. Giồng Trà Dên trước cách mạng tháng 8/1945
Trước cách mạng tháng Tám 1945, Giồng Trà Dên còn là vùng hoang vắng, nhà cửa thưa thớt. Các sĩ phu yêu nước khởi nghĩa thất bại ở nơi khác dựa vào rừng tre này ẩn náo như thầy chùa Thiện, chánh lãnh binh Trần Văn Thọ, phó lãnh binh Trần Hữu Hạnh của nghĩa quân Bờ Đồn (Vĩnh Hòa).
Các phần tử bất lương, trộm cướp từ các xã xung quanh cũng lợi dụng địa hình này trốn tránh sự truy nã của chính quyền. Đồng bào nghèo không tiền đóng thuế thân cũng vào đây trú ẩn.
Vào giữa năm 1930, chi bộ Đảng xã Tân An, Vĩnh Hòa được thành lập gồm các đồng chí Tô Thành Khải, Dương Văn Quảng, 5 Khuyên do Tô Thành Khải làm bí thư. Rừng tre thiên nhiên này là nơi họp bí mật của chi bộ xã tránh được sự theo dõi của địch. Lợi dụng địa hình này, năm 1938, đồng chí Trịnh Đình Thước, bấy giờ là ủy viên Ban cán sự Tỉnh ủy Châu Đốc, mở cuộc mít tinh có hàng trăm quần chúng từ các xã Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương, các xã ven biên giới Campuchia (Chòm Dầu, Phú Mỹ, Vĩnh Lợi Trinh...) đến dự. Đồng chí Trịnh Đình Thước tuyên truyền về sự ra đời của Đảng, kêu gọi dân chúng đứng lên đánh đuổi thực dân, phong kiến, tháo ách gông xiềng nô lệ, giành độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày. Sau phong trào Mặt trận Bình dân Pháp tan rã, Trịnh Đình Thước bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo và hy sinh.
(* Mặt trận Bình dân Pháp là một liên minh chính trị của các lực lượng cánh tả ở Pháp, bao gồm Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản, Chi hội Pháp của Công nhân Lao động Quốc tế (SFIO) và các chính đảng, tổ chức chính trị khác trong thời kì 1935 – 1938).
Cuộc khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940, Giồng Trà Dên là nơi một số đồng chí bị Pháp truy kích về trú ẩn và bắt liên lạc hoạt động lại. Nhờ có rừng tre tự nhiên này, chi bộ xã Tân An - Vĩnh Hòa vẫn tồn tại.
Năm 1942, đồng chí Tám Dưa (Bí thư Liên tỉnh ủy miền Tây đã mở nhiều cuộc họp bí mật, duy trì tổ chức Đảng và phát triển Mặt trận Việt Minh, Thanh niên Cứu quốc... Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chánh Pháp, Thanh niên Tiền phong, một tổ chức hợp pháp được thành lập. Thanh niên tiền phong Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương, (thường gọi tắt là An Hòa Xương) ngày đêm luyện tập võ nghệ. Tín đồ các tôn giáo Hòa Hảo, Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương cũng có phong trào học võ khá sôi nổi. Trong cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền Tháng Tám 1945, hàng trăm thanh niên Tiền phong An Hòa Xương, tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của chùa Thầy Bảy Vĩnh Xương… tham gia cướp chính quyền ở Tân Châu và Châu Đốc.
###III. Giồng Trà Dên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945-1954)
Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân thoát khỏi ách thực dân phong kiến, bắt đầu xây dựng cuộc sống mới. Ủy ban Nhân dân xã được thành lập gồm đại diện nhiều thành phần: đảng viên, người theo đạo Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương, những cá nhân hoạt động trong Hội tề cũ trước đây không làm khó dễ dân cũng được tham gia chính quyền. Thanh niên hăng hái gìn giữ xóm ấp. Chị em phụ nữ thành lập hội và thường xuyện họp mặt để sinh hoạt chính trị, xã hội. Các lớp bình dân học vụ xóa mù chữ được mở ra.
Niềm vui chẳng được bao lâu, ngày 23/9/1945, Pháp trở lại xâm chiếm nước ta lần nữa. Nhân dân ta lại đương đầu với trận chiến đấu kéo dài suốt 9 năm. Dưới sự chỉ đạo của Quận ủy Tân Châu, 3 xã Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương xây dựng Giồng Trà Dên thành căn cứ cách mạng.
Trong thời kỳ này Tỉnh ủy Châu Đốc lập 5 phòng tuyến ở các nơi xung yếu hình thành mặt trận đánh quân xâm lược Pháp, trong đó có phòng tuyến Vàm Kinh Xáng - Tân An. Ở đây, Tự vệ chiến đấu quân và Cộng hòa Vệ binh quận Tân Châu vận động nhân dân kéo hàng chục ghe chài có trọng tải lớn do Nhật bỏ lại chặn tàu địch từ Tân Châu qua Châu Đốc.
Ngày 23/1/1946, Pháp trở lại chiếm đóng Tân Châu, chiếm đóng nhiều đồn bót và lập lại bộ máy tề xã.
Pháp chiếm, bộ máy chính quyền nhiều thành phần của cách mạng bị phân hóa, chỉ còn lại lực lượng yêu nước theo Đảng Cộng sản Đông Dương và Thanh niên Tiền phong.
Dân quân du kích xã Tân An, Vĩnh Hòa được thành lập do đồng chí Phạm Hùng Việt (Mãng) phụ trách. Đội nữ dân quân do đồng chí Năm Lẹ chỉ huy gồm có các đồng chí Bảy Chuối, Huỳnh Thị Lào, Sáu Thất, Năm Ngôi, Ven, Sáu Bồng, Ba Mửng... cũng được thành lập góp phần bảo vệ làng xóm, bảo vệ căn cứ.
Có căn cứ, ngoài lực lượng cách mạng 3 xã Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương bám trụ, còn nhiều lực lượng khác như Chi đội 22 Công binh xưởng chế tạo vũ khí của Chi đội Hoài U. Chủ trì chùa Núi Nổi góp chuông đồng của chùa cho công binh xưởng, nhiều đồng bào đã góp mâm thau, nồi đồng để chế tạo vũ khí. Bộ đội Lê Bá, Trần Thắng, Bùi Văn Danh, Cộng hòa Vệ binh của Hùng Cẩm Hòa, lực lượng bộ đội hải ngoại Quang Trung thành lập tại Thái Lan cũng dựa vào căn cứ này xuất kích đánh địch ở các xã lân cận, đồng thời hoạt động sâu xuống các xã ở lộ đá Tân Châu - Châu Đốc.
Tháng 4/1946, Ban trừ gian của tỉnh kết hợp địa phương quân và lực lượng các xã giải tán hàng loạt bộ máy tề xã ở An Hoà Xương.
Tháng 5/1947, lực lượng Pháp cùng tay sai là bảo an quân của Lâm Thành Nguyên (Hai Ngoán) vượt kinh xáng tiến chiếm An Hòa Xương, Phú Hữu, ống Bình Linh, tất cả hơn 1.800 quân. Phía ta chỉ có dân quân du kích các xã và một tiểu đội địa phương quân. Sau hai ngày cầm cự, lực lượng cách mạng An Hòa Xương được lệnh của Quận ủy rút qua tả ngạn sông Tiền (xã Thường Phước).
Chiếm được An Hòa Xương, chúng bố trí cho Chi đội Hắc Long trang bị đầy đủ vũ khí trú đóng tại Vĩnh Xương, còn Lâm Thành Nguyên đóng tại nhà Cả Võ ở Giồng Trà Dên. Đồng bào di tản không kịp bị chúng giết hại lên đến hàng ngàn người. Bộ đội Trần Thắng từ vùng bảy núi hay tin kéo binh về cứu số đồng bào còn lại vượt sông Tiền sang Thường Thước.
Âm mưu của Pháp là chiếm đóng cho được An Hòa Xương để cắt đường liên lạc giữa khu 8 và khu 9, chủ động kiểm soát đường biên giới và hai bờ sông Tiền từ Hưng Lợi đến Tân Châu, tiến sang tả ngạn sông Tiền chiếm đóng các xã Thường Phước và Đồng Tháp Mười. Giữ được căn cứ Giồng Trà Dên, An Hòa Xương có tầm quan trọng đặc biệt, là xương sống nối liền khu 8 và khu 9.
Lực lượng cách mạng An Hòa Xương cũng như của quận Tân Châu gặp vô cùng khó khăn vì khi tránh địch sát hại, hầu hết ra đi không kịp mang theo đồ đạc, cả quần áo. Cán bộ, quần chúng lâm vào cảnh đói khổ, thiếu thuốc men, không có nhu yếu phẩm cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày. Trong khi đó địch thường xuyên tràn qua đây bố ráp, cướp phá. Tàu Pháp đánh liên miên, chỉ thấy dạng người thấp thoáng là chúng bắn. Dù vậy, chỉ sau hơn hai tháng ổn định lại tổ chức, Quận ủy Tân Châu cử tổ quân báo gồm các đồng chí Mười Tương, Bảy Phát (Bảy Chía), Yểm, Tâm trở về địa phương nắm tình hình địch, móc nối lại cơ sở, xây dựng lại địa bàn hoạt động.
Trở về vùng địch tạm chiếm lúc bấy giờ cực kỳ nguy hiểm. Đồn bót bảo an quân đóng dày đặc. Dân chúng tránh chiến tranh di tản phần lớn, tàu địch tuần tiễu trên sông 6 chiếc lên, 4 chiếc xuống. Tổ quân báo chỉ được trang bị chiếc xuồng 3 lá làm phương tiện vượt sông trên đoạn có chiều rộng gần 2 cây số. Vũ khí chỉ có gươm, giáo... Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Vì sự nghiệp cách mạng các đồng chí quyết làm tròn sứ mệnh để đưa lực lượng ta trở về bám trụ xây dựng lại căn cứ.
Vượt sông đã khó, khi về đến địa bàn xã lại càng khó hơn. Dù vậy, tổ quân báo hoàn thành nhiệm vụ, ngoài việc nắm địch tình, anh em còn rải truyền đơn gây niềm tin trong đồng bào rằng Việt Minh vẫn tồn tại không như địch phao tin. Dần dần cán bộ An Hòa Xương trở về bám địa bàn An Hòa Xương, bám Giồng Trà Dên hoạt động.
Tháng 4/1948, tỉnh Long Châu Tiền được thành lập. Các xã ghép lại như Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương thành An Hòa Xương; Long Sơn, Long Phú, Phú Vĩnh thành Vĩnh Sơn Long vì thiếu cán bộ.
Giữa năm 1948, Xứ ủy chủ trì hội nghị với đại diện Tỉnh ủy Long Châu Tiền và một số ngành liên quan như đại diện Bộ chỉ huy quân sự địa phương do Nguyễn Quang Việt và Nguyễn Phước Trẫm tham dự, quyết định giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 115 chiếm lại huyện Châu Phú B và An Hòa Xương với lực lượng: đại đội 1027, đại đội 1029, đại đội 1035, đại đội 1030 cùng các lực lượng địa phương. Chỉ huy: Nguyễn Phước Trẫm, Nguyễn Trường Can (cán bộ trực chiến đấu), Nguyễn Quang Hạn (quân báo).
Với quyết tâm chiến đấu bảo vệ đồng bào, bảo vệ căn cứ, cán bộ và nhân dân xã đã điều động trên 100 xuồng, ghe từ Mương Kinh (Thường Phước) đến điểm hành quân 16 km đường sông. Có lúc phải vác ghe xuồng trên vai vì nước mới tràn đồng, có nơi gò cao còn cạn, vất vả suốt ngày quyết có đủ phương tiện cho trận quyết chiến.
Ngày 24/8/1948, sau khi nắm chắc tình hình địch, bộ đội ta đã rầm rộ vượt sông. Khi vượt sông, một tiểu đội đại liên vì ghe chở nặng đã trôi đến gần một chốt tiền tiêu của giặc, chúng nổ súng. Ta liền bắn tỉa và sáp vào bờ chiến đấu tiêu diệt 4 tên, bắt sống 2 tên, thu 1 tiểu liên và 4 súng trường. Toàn bộ lực lượng ta lên bờ an toàn.
Sau nắm cơm vắt đỡ lòng buổi sáng, lực lượng ta được lệnh tiến công. Trời vừa tờ mờ sáng, đại đội 1027 và 1030 nã đạn cầu vòng vào phòng tuyến giặc, mục tiêu là những ổ súng máy của chi đội Hắc Long. Đại đội 1035 và 1029 ở phía sau. Mục tiêu của 1035 là chiếm địa bàn xã Vĩnh Hòa, một cù lao ở ngoài sông cách xã Tân An một lạch nước không sâu. Đại đội 1029 án ngữ chặn giặc từ Hưng Lợi. Theo kế hoạch khi mặt chính diện 1027, 1030 dồn địch đến xã Tân An thì đại đội 1029 băng đồng đánh chiến Núi Nổi và đánh thẳng vào tổng hành dinh của Hai Ngoán, nhà Cả Võ Giồng Trà Dên .
Để đối phó lại ta, giặc đã đào sẵn 8 chiến hào từ bờ sông Tiền vào trong đồng dài khoảng 800 mét. Lợi dụng chiến hào giặc, qua đợt xung phong đầu, ta đã diệt 70 tên và làm bị thương một số tên khác. Càng tiến sâu vào phía Tân An, giặc yếu dần sức chiến đấu. Đến 9 giờ, lực lượng ta đã lần lượt vượt qua 5 phòng tuyến của giặc và hình thành một thế bao vây. Tại đây chi đội “Hắc Long” tan rã. Tên chi đội trưởng bị tiêu diệt.
Đến 13 giờ, đại đội 1029 được điều động thay thế đại đội 1027 ở chính diện. Một trung đội của đại đội 1029 đụng phải một đơn vị địch từ xã Vĩnh Hòa rút chạy về tổng hành dinh. Trung đội này đã chiến đấu và đánh tan đơn vị của giặc. Một trung đội khác của 1029 trên đường băng sang chiếm Núi Nổi đã bắt gặp bộ phận tiếp tế đạn do tàu Pháp chuyển lên từ sông Hậu. Bọn này bị ta diệt gọn và ta đã thu được gần 1 tấn đạn đủ loại.
Cũng vào lúc này, đại đội 1030 đã đến đầu Giồng Trà Dên. Một khẩu trung liên 7 ly 7 của ta bố trí ngang đường cách nhà Cả Võ 3 km. Ta phát hiện toán quân của địch từ phía Tân An tiến lên liền nổ súng, 4 tên chết tại chỗ, 2 tên bị bắt sống. Sau mới biết Lâm Thành Nguyên chưa hay tin chi đôi Hắc Long bị tiêu diệt đến bắt liên lạc bị ta nổ súng. Lâm Thành Nguyên bị thương. Ta tiếp tục truy địch đến bờ Kinh Xáng thuộc xã Tân An, đến 9 giờ đêm im tiếng súng. Ta chiếm lại An Hòa Xương và Châu Phú B. Căn cứ An Hòa Xương được khẩn trương xây dựng lại.
Từ căn cứ này, lực lượng cách mạng đi hoạt động đến Tân Châu, xây dựng cơ sở ở Vịnh Đồn. Địch luôn tìm cách đánh phá để hủy diệt căn cứ, tiêu diệt cán bộ cách mạng bám trụ nơi đây. Tàu Pháp từ sông Tiền vòng vô Xép Cỏ Găng bắn đại bác vào căn cứ liên tục. Các đại đội 8 của Cò Dốt, Cò Ngượt, đại đội 33 ở Châu Đốc vượt đồng đánh vào, có ngày đánh 3 trận, nhưng căn cứ thiệt hại không đáng kể.
Năm 1949, địch đóng đồn Xép Cỏ Găng, đồn Tuần Mẹo, Núi Nổi, Rạch Bà Cả. Vùng đất này bị chia tuyến: từ Mương Sâu lên Vĩnh Xương do lực lượng cách mạng đóng, từ Mương Sâu trở xuống Vàm Xáng (khoảng 3km) địch chiếm đóng. Bấy giờ An Hòa Xương đứt liên lạc với huyện ủy (đang đóng ở Thường Phước) có khi cả tháng cũng không nhận được sự chỉ đạo cấp trên nhưng lực lượng vẫn quyết tâm bám trụ. Thiếu lương thực, được Khu ủy chi viện, nhưng gạo để lâu ngày khi nấu cơm rất khó ăn, bấy giờ anh em chiến sĩ đặt cho cái tên “gạo căm xe”. Có chén cơm “gạo căm xe” đỡ dạ, dân quân, du kích xã vừa bám đất vừa thọc sâu hoạt động đến Vịnh Đồn, đến Kinh Xáng đánh địch.
Đội nữ dân quân du kích góp phần cùng cánh nam, hợp đồng đánh tiêu diệt đồn Tuần Mẹo, chị em dùng hom dâu thiêu hủy đồn. Các chị em nữ như chị Năm Lẹ, Năm Sen, vợ chồng chín Hoàng Hải... rất can đảm cùng du kích đánh tàu Công Go của Pháp lấy được cây trung liên. Nhưng để chuẩn bị đánh lô cốt ở đuôi cồn, chị Sáu Bồng giả câu cá gần đồn để quan sát bị chúng phát hiện bắt đánh chị đến chết.
Năm 1950, để đẩy mạnh hoạt động phối hợp chiến trường, lực lượng vũ trang Tân Châu nâng lên thành Đại đội địa phương quân huyện có 150 đội viên do Trương Bình Khiêm làm Huyện đội truởng.
Nhiệm vụ của huyện đội là bảo vệ đường giao thông giữa khu 8 và khu 9. Ngoài ra còn tổ chức phối hợp với các đơn vị du kích liên xã được trang bị vũ khí để hoạt động, trong đó du kích An Hòa Xương là đội quân chiến đấu dũng cảm, đánh thắng nhiều trận.
Tháng 12/1950 huyện Phú Châu được thành lập, An Hòa Xương thuộc huyện này.
Đại đội 1035 của huyện kết hợp với du kích tấn công đại đội 14 của địch ở ống Bình Linh mở rộng căn cứ liên hoàn Giồng Trà Dên - ống Bình Linh từ An Hòa Xương đến biên giới Bắc Nam, Phú Hữu.
Lợi dụng mùa nước lũ năm 1952, địch tăng cường hoạt động ở An Hòa Xương. Pháp sử dụng lực lượng dân xã của Hai Ngoán mở cuộc càng lớn. Đại đội 1035 cùng tiểu đoàn 311 chặn đánh quyết liệt buộc chúng lui quân, ta tiến đánh lô cốt Núi Nổi, Xép Cỏ Găng, đồn Tuần Mẹo. Địch tập trung lực lượng lớn phản kích. Ta rút lui để bảo tồn binh lực. Đến hết mùa nước lực lượng Phú Châu lại trở về. Bây giờ căn cứ ống Bình Linh, Giồng Trà Dên hân hạnh đón tiếp đồng chí Lê Đức Thọ (ủy viên Trung ương Đảng) trên đường đi Nam Vang ghé thăm cán bộ, chiến sĩ Phú Châu. Chứng kiến trận chống càn vào căn cứ đồng chí đã khen ngợi anh em cán bộ, chiến sĩ, tỏ lời cảm thông sự vất của bộ đội, du kích.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, xuất phát từ căn cứ Giồng Trà Dên, bộ đội Phú Châu đánh địch nhiều trận, phá ủy nhiều lô cốt từ Vịnh Đồn đến lộ đá Tân Châu. Căn cứ vẫn giữ được cho đến ngày ký kết Hiệp định Genève.
Căn cứ Giồng Trà Dên - An Hòa Xương tồn tại trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, trong khi địch cũng quyết tâm chiếm vùng đất này đứng chân để khống chế tuyến biên giới, nhưng chúng đã thất bại. Đạt được kết quả đó trước hết Huyện ủy đã nhận thấy vi trí quan trọng của căn cứ và chỉ đạo đúng đắn, đưa cán bộ, lực lượng vũ trang huyện về bám vùng. Vai trò quyết định phải nói đến sự kiên cường bám trụ, dám hy sinh của quân và dân An Hòa Xương. Cán bộ, chiến sĩ chịu đựng gian khổ, dũng cảm, mưu trí kết hợp cùng lực lượng vũ trang địa phương, đại đội 1035 đẩy lùi từng trận càn, đánh địch từ xa hạn chế chúng ruồng bố.
Để giữ vững căn cứ, hơn 30 chiến sĩ du kích hy sinh. Có người chết vì bị tù đày tra tấn dã man... Sự chiến đấu dũng cảm của quân và dân Giồng Trà Dên - An Hòa Xương là truyền thống tốt đẹp được đồng bào phát huy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sau này.
###IV. Căn cứ Giồng Trà Dên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975)
**1 - Giai đoạn 1954 - 1960**
Hiệp định Genève được ký kết. Miền Nam chuyển hướng chiến lược từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị.
Trong quá trình tiếp nhận chính quyền từ tay thực dân Pháp, Ngô Đình Diệm tiến hành thống nhất các lực lượng giáo phái, Nguyễn Giác Ngộ, Hai Ngoán, Năm Lửa lần lượt đầu hàng (riêng Ba Cụt trong lúc điều đình với Diệm bị bắt và bị tử hình ở Cần Thơ). Một số đại đội của Hai Ngoán ly khai chống Diệm... Lê Hồng Tươi thành lập tiểu đoàn Lê Văn Duyệt chiếm đóng khu vực Tân Châu, chiếm Giồng Trà Dên làm căn cứ. Trong tiểu đoàn Lê Văn Duyệt, lực lượng cách mạng được đưa vào trong ban tham mưu và được cho thành lập riêng 1 đơn vị mang tên Đại đội 4, đa số là người xã Tân An, Vĩnh Hòa, như các đồng chí Ba Tài trong ban tham mưu, Út Dũng (Huỳnh Văn Dũng, tên thường dùng là Dũng Khoe) Đại đội trưởng Đại đội 4, Bá Tùng, Sơn Sóc...
Trong hai năm 1956, 1957 Đại đội 4 làm nòng cốt cùng tiểu đoàn Lê Văn Duyệt đã chiến đấu nhiều trận chống càn của lực lượng bảo an liên đội 7 - người Nùng, tỉnh đoàn bảo an và địa phương quân Tân Châu vào căn cứ. Trong các trận chiến đấu 2 đồng chí Nhâm và Tiểu đã hy sinh. Ngày 14/7/1958 Lê Hồng Tươi đầu hàng Diệm, các đồng chí đại đội 4 bám vùng biên giới chờ đợi thời cơ trở về hoạt động. Giồng Trà Dên thuộc quyền kiểm soát của địch.
- Xây dựng căn cứ 1960
Căn cứ là địa bàn đứng chân để bung ra hoạt động, không có căn cứ không thể có phong trào cách mạng. Dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy Tân Châu, quân dân Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương nhận rõ được tầm quan trọng đặc biệt đó. Khi được phép hoạt động vũ trang, lực lượng cách mạng Tân An, Vĩnh Hòa, Vĩnh Xương tiến hành xây dựng căn cứ. Cuối năm 1959 đồng chí Nguyễn Ngọc Tạc, Bí thư huyện ủy cùng các cán bộ văn phòng về ở nhà đồng chí Tuấn và các gia đình xung quanh ở ấp Vĩnh Bường xã Vĩnh Hòa, chỉ cách đồn Tam Giác khoảng 300 mét để xây dựng cơ sở, lực lượng chính trị. Du kích mật xã Tân An, Vĩnh Hòa… được thành lập.
Ngày 2/7/1960, Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ngọc Tạc, đồng chí Út Dũng, tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 510 chỉ huy, phối hợp cùng kích Tân An, Vĩnh Hòa tiến đánh hạ đồn Tam Giác (Chi bộ xã Tân An vận động được đồn phó đồn Tam Giác là Nguyễn Văn Hạnh làm nội tuyến) diệt 4 tên lính bảo an thu 3 trung liên, 7 tiểu liên, 3 carbine, 3 garant, 3 trường mas và nhiều loại đạn dược, số súng vô cùng quý hiếm trong thời điểm bấy giờ. Tên Tề bỏ chạy về quận bị gián chức. Địch phải bỏ đồn Tam Giác 6 tháng sau mới mới lập lại.
Được tin đồn Tam Giác thất thủ, địch lồng lộn, chúng cho bảo an lùng sục bắt bớ những người chúng tình nghi có liên quan móc nối nội tuyến. Các đồng chí tham gia trận đánh thoát ly kịp thời. Một số dân thường bị bắt, trong đó có anh Lúa chạy xe phôlích, chúng đem anh về quận Tân Châu đánh đập đến chết rồi lén chở đến nhà mát mộ Sư Ông phao tin anh Lúa bỏ chạy, bị bắn chết. Nhân dân vô cùng phẫn nộ, đồng chí Bảy Lưỡng, Bí thư chi bộ Tân An nhanh chóng vận động nhân dân chở xác nạn nhân đấu tranh đến quận Tân Châu. Cuộc đấu tranh có trên 150 người tham dự. Đoàn đấu tranh được bà con lao động nghèo Tân Châu hưởng ứng thành cuộc biểu tình lớn làm náo động chợ Tân Châu. Bọn lính quận không dám đàn áp.
Chuẩn bị đợt tổng khởi nghĩa chung toàn tỉnh, Huyện ủy tổ chức cuộc họp tại nhà đồng chí Hai Nga để bàn kế hoạch, địch phát hiện đến bao vây. Chúng đến sớm hơn giờ họp nên các đồng chí huyện ủy viên ở các nhà xung quanh hay tin tránh thoát. Đồng chí Mười Trí, Chánh văn phòng Huyện ủy, vợ chồng đồng chí Hai Nga bị bắt. Đồng chí Trê chạy không thoát cắn lưỡi tự tử chết.
Tiếp tục trấn áp địch, đưa thế chính trị của quần chúng lên, tiểu đoàn 510 cùng lực lượng xã do đồng chí Nguyễn Ngọc Tạc phối hợp chỉ huy bố trí trận địa tại Xép Cỏ Găng đánh lực lượng bảo an đồn Bến Nước.
Để quân địch lọt vào ổ phục kích, chi bộ xã có các đồng chí Út Ba, Mười Trạc giả vờ bắt trưởng ấp Chạp (trưởng ấp Tân Vĩnh) là gia đình cơ sở, rồi đưa mẹ và vợ ấp Chạp lên đồn báo tin. Trưa ngày 10/9/1960 hai trung đội bảo an đồn Bến Nước chia làm hai cánh tiến về ấp Tân Vĩnh (ấp Vĩnh Bường ngày nay). Một cánh quân do tên trung sĩ Đạo chỉ huy theo ven sông Tiền xuống; một cánh quân khác do tên thượng sĩ Nguyên theo lộ Vĩnh Xương - Tân An đánh bọc hậu quân cách mạng. Trận đánh kéo dài trên hai giờ. Quân ngụy rút chạy về đồn Bến Nước. Tiểu đoàn 510 đã diệt được tên Đạo và 10 lính bảo an, tên Nguyên cùng bốn tên lính bị thương, ta thu thếm 10 súng (có 1 cây trung liên). Đơn vị hy sinh 2 cán bộ tiểu đội (đồng chí Độ và đồng chí Dời), Tiểu đoàn trưởng Võ Tấn Phục (Tư Nam) bị thương nặng qua đến Thương Phước thì hy sinh.
Say trận này địch co cụm lại ở đồn bót, lực lượng các xã còn tổ chức vận động các trưởng ấp về gia đình làm ăn hoặc ủng hộ cách mạng, những tên ngoan cố bị diệt như trưởng ấp Nhật (Tân Phú), trưởng ấp Tây (Tân Vĩnh) và các tên chỉ điểm khác. Giồng Trà Dên được giải phóng, trở thành căn cứ cách mạng của xã An Hòa Xương và huyện Tân Châu. Quận Nhàn thừa nhận vùng này chỉ 10% dân số theo quốc gia.
- Bám trụ - chiến đấu - xây dựng căn cứ (1961-1964)
Lực lượng cách mạng chiếm Giồng Trà Dên, địch tiến hành nhiều thủ đoạn, cả đàn áp bằng vũ lực lẫn mị dân, mua chuộc, tách quần chúng khỏi lực lượng cách mạng, đánh phá căn cứ. Qua năm 1962, địch phản công quyết liệt, thực hiện kế hoạch lập ấp chiến lược, có 2 cố vấn Mỹ được đưa vế quận Tân Châu chỉ đạo thi hành kế hoạch.
Chúng thành lập khu trù mật Tân An bắt dân ấp Tân Phú vào khu trù mật, dân chúng không đi, chúng cho lính dỡ nhà, một mặt chúng cho bắn pháo liên miên vào ấp Tân Phú (trong kế hoạch bình định chúng khoanh vùng nơi đây là vùng tự do bắn pháo), Lê Hồng Tươi được cử làm Tổng đoàn dân vệ sau là Chánh tổng Tổng An Thành (vì am hiểu gia đình cách mạng nơi đây khi hoạt động hợp tác với đại đội 4 trước đây) để đánh phá cách mạng triệt để hơn.
Trung tá tỉnh trưởng Châu Đốc chỉ định cho quận trưởng Tân Châu “Cho hoạt động mạnh từ Kinh Xáng trở lên biên giới Vĩnh Xương để diệt trừ dân quân Việt cộng địa phương”.
Đầu tháng 5 năm 1961, tên Dẽo là du kích xã Tân An thời kỳ kháng chiến chống Pháp, sau được tổ chức cách mạng đưa vào làm nội tuyến đồn Vĩnh Xương, tên này làm phản giết chết đồng chí Trương, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 510 và đồng chí Xuân khi đi làm nhiệm vụ diệt tên đại diện Ngô Như Lễ ở Vĩnh Xương; càng lúc tên Dẽo càng hung hăng càn bố bắt bớ gia đình cách mạng, tên này được địch điều về Bến Nước đánh phá cách mạng Vĩnh Hòa.
Vừa chống càn, lực lượng địa phương quân huyện và du kích các xã vừa chủ động tấn công địch, ngày 12/5/1961, quân ta tấn công đồn Tam Giác, bọn địch huy động cả lực lượng của đồn Bến Nước, Vĩnh Xương kết hợp cùng tổng đoàn dân vệ do quận trưởng chỉ huy đến giải vây cho đồn. Trận này quân ta diệt 1 tên bảo an và bắn bị thương 2 dân vệ khác, lực lượng ta rút về căn cứ an toàn.
Đêm 31/10/1961, lực lượng địa phương quân huyện kết hợp du kích xã đánh đồn Bến Nước, ý định diệt cho được tên Dẽo qua nội tuyến Nguyễn Văn Mánh và Lê Văn Trình. Nhưng tên Mánh làm phản cho Dẽo biết tin; theo kế hoạch bàn trước, Bảy Bá, Vinh đặc công huyện làm theo mật hiệu của Mánh vào đồn liền bị Dẽo bắn chết. Lực lượng bên ngoài kịp thời rút đi, Trình bị bắt đày Côn Đảo mất tích, mẹ và vợ anh cũng bị bắt bỏ tù.
Ngày 6/1/1962, Trung đội địa phương quân huyện do đồng chí Hai Hạp chỉ huy kết hợp cùng đồng chí Út Dũng, tiểu đoàn phó 512, phục kích diệt tên Dẽo. Qua nhiều ngày theo dõi, thường ngày Dẽo đi về đồn Tam Giác nên các đồng chí chỉ huy phục kích tại Voi Tre - Hố Chuồng. Khoảng 9 giờ, thiếu úy Biết quận đoàn trưởng cùng đám lính bảo an Tân Châu đi lên phát lương, trong khi đó tên Dẽo lòn đường đồng về, anh em chiến sĩ không phát hiện được. Quân ta chuyển sang phục kích diệt tên Biết vì tên này còn ác ôn hơn cả tên Dẽo. Khoảng 11 giờ trưa, Biết cùng lực lượng tùy tùng trên 3 chiếc xe phulích đến địa điểm cây Me Chua, lực lượng ta bất ngờ bung ra chặn xe, chúng không kịp đối phó, tên thiếu úy Biết, thiếu úy Hòa và một số tên khác bị bắn chết. Lực lượng ta hy sinh đồng chí Minh, phó chỉ huy địa phương quân huyện. Sau trận đánh này, các đồn bót xung quanh co lại, Dẽo cũng không dám đi càn bố và tìm cách chuyển đổi về huyện Tịnh Biên.
Du kích và địa phương quân huyện còn phục kích đánh lực lượng địch canh gác, tuần tra, diệt những tên ác ôn, chỉ điểm như tên Ráy, tên Lê Văn Thành (chín Xứa), bắt trung đội trưởng Bán đem về căn cứ giáo dục. Trong 2 năm 1962, 1963 quân dân xã tham gia nhiều đợt phá ấp chiến lược ở các ấp Tân Hậu A, Tân Hậu B, nhổ trụ sắt, dây kẻm gai về làm xã chiến đấu ở căn cứ.
Rầm rộ và sôi động trong thời kỳ này không thể quên các cuộc đấu tranh chính trị của quần chúng đấu tranh chống quy khu của nhân dân Tân An - Vĩnh Hòa từ xã đến quận Tân Châu.
Được tin địch quy khu ấp Tân Phú vào trù mật chợ Tân An, Huyện ủy cử đồng chí Sáu Tân, Ủy viên Ban Thường vụ lãnh đạo đồng bào đấu tranh.
Mùa nước 1961, viện cớ do quy khu dồn dân, dân chúng lâm vào cảnh đói khổ, chi bộ xã Tân An tổ chức kéo đến Hội đồng xã đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Lực lượng gần 300 người dân ở 2 ấp Tân Hòa và Tân Phú đấu tranh đòi giảm thuế, chống bắn pháo vào làng. Đoàn biểu tình bị đám tề xã bắt nhốt một số, ta nhờ người thân của chúng tranh thủ, lo lót tiền bạc nên chúng thả ra. Cuộc đấu tranh ở xã không đạt được kết quả, đồng bào đi đấu tranh đến quận, nhân dân ấp Tân Hòa hỗ trợ lo tàu bè, các phương tiện chở dân đi đấu tranh.
Tiếp sau cuộc biểu tình trước, Chi bộ Tân An tổ chức cho bà Phước Thiện hướng dẫn 300 người đến quận đòi cấp gạo vì nước ngập mùa màng thất bát, quận Nhàn chấp nhận theo yêu cầu của dân. Giành thắng lợi, chi bộ xã lại tổ chức cuộc đấu tranh khác được chuẩn bị chu đáo, phân chia thành từng tổ, có sự liên lạc từ trên xuống, có đảng viên theo đoàn lãnh đạo và các đồng chí có uy tín trong nhân dân như Lê Văn Bàng, Phạm Hữu Vi, Phan Thị Như, Lương Thị Huệ, Sáu Mới cùng nhiều bô lão khác với hơn 500 dân chúng tham dự. Đoàn đi trên 11 chiếc tàu kéo đến dinh quận. Quận Nhàn ra tiếp đoàn nhưng với lời lẽ xấc xược cho rằng đồng bào nghe theo lời xúi giục của cộng sản kéo biểu tình, rồi bắt nhốt vào lò tương hết nửa ngày. Riêng bà Mười Phê chúng nghi lãnh đạo cuộc biểu tình nên chúng nhốt ở quận. Một tuần sau nhân dân Tân An, Vĩnh Hòa cùng lực lượng các xã khác kéo xuống đáu tranh đòi thả bà Mười Phê, được tin dân kéo biểu tình nữa, bọn địch thả bà Mười Phê về.
Sau đó, lực lượng biểu tình còn nhiều lần tập trung ở thị trấn Tân Châu, bà con ăn mặc rách rưới như người ăn xin kéo đến dinh quận. Khi gặp tên quận trưởng, người thì tố khổ vì nạn đói rách phải đi ăn xin nhờ quận cứu tế, người kêu mất mùa đòi giảm thuế, chống quy khu dồn dân vì dân nghèo đói không tiền đi, chống bắn pháo vào làng… nếu tiếp tục bắn pháo thì người dân không sao yên ổn làm ăn phải chịu cảnh đói khổ, nhưng tên quận Nhàn ác ôn lại ra lệnh bắt giam số người đó tại lò tương Chương Hưng. Với tình thế đó, đồng bào ta kéo tới rất đông để tiếp tục tố khổ. Dù bị bắt hết lớp này đến lớp khác, đồng bào vẫn kiên quyết đấu tranh. Đồng bào và cơ sở thị trấn tổ chức cơm nước để ủng hộ cho đoàn biểu tình đang bị nhốt. Mặt khác binh chánh vận của ta cố gắng đến tranh thủ với tên Nhàn để chúng thả đồng bào ra. Tên Nhàn vẫn ngoan cố cho xe chở đồng bào bỏ bên núi Sam. Ban lãnh đạo cuộc biểu tình kịp thời tổ chức lại hàng ngũ chỉnh tề và sinh hoạt với nhau là vừa qua mình biểu tình bất hợp pháp với chúng, bây giờ chúng đã tạo cho ta có cơ hội biểu tình với thế hợp pháp hơn. Đoàn biểu tình kéo bộ về Châu Đốc vừa đi vừa hô vang những khẩu hiệu đấu tranh khiến đồng bào hai bên đường ra thăm hỏi rất đông, làm ta có dịp tuyên truyền hơn nữa. Ngụy quyền bấy giờ không có lý do gì cản được. Đồng bào cơ sở Châu Đốc tiếp tế cơm nước và lo tàu đưa đoàn biểu tình về. Qua sự việc này, quận Nhàn bị tỉnh trưởng quở trách vì để dân kéo biểu tình đến Châu Đốc. Biểu tình trực tiếp bị địch đàn áp, chi bộ xã Tân An tổ chức biểu tình gián tiếp bằng hình thức đi chợ nhồi. Đi chợ nhồi là hình thức cùng nhau đi chợ thật đông, có ngày vắng lặng không đi. Đến chợ chị em than nghèo kể khổ rồi làm công tác binh vận. Gặp lính địch bà con tác động tinh thần cho chúng rã ngũ…
Khí thế cách mạng đang lên, Ban Tuyên huấn huyện kết hợp cùng lực lượng địa phương quân huyện, chi bộ các xã tổ chức cuộc biểu tình chào mừng ngày Quốc Khánh 2/9/1961 trên sông Kinh Xáng, Ban tổ chức vận động tàu khách Tân An - Châu Đốc tham gia diễu hành, cùng số tàu cơ sở xã Tân An, số lượng tàu đến 11 chiếc với 500 quần chúng tham dự. Lá cờ Mặt trận được giương lên, bà con hô vang khẩu hiệu “Đả đảo Ngô Đình Diệm”, “Hồ Chí Minh muôn năm” vang cả khúc sông. Đồng chí Lương Văn Khách (Bảy Hà) Trưởng Ban Tuyên huấn huyện phát loa kêu gọi bà con đứng lên đấu tranh đánh đổ chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, tay sai đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Bọn địch ở Tân An hoảng hốt, bỏ chạy đến quận lỵ Tân Châu. Bà con hai bên bờ sông ra xem cuộc diễu hành. Nhiều thanh niên hăng hái bơi xuồng theo.
Cuộc biểu tình diễn ra giữa ban ngày trong vùng địch kiển soát chứng tỏ lực lượng cách mạng đã phát triển khá mạnh. Đồng bào càng tin tưởng, ủng hộ cách mạng, xây dựng căn cứ.
Mùa nước năm 1961, căn cứ Giồng Trà Dên đón tiếp đồng chí Nguyễn Thị Định bấy giờ bà là Khu ủy viên Khu 8 đi khảo sát Bảy Núi ghé qua. Bà được bảo vệ an toàn trong thời gian dừng chân nơi đây.
Năm 1962, địch tiếp tục mở hàng trăm cuộc càn lớn nhỏ vào căn cứ, đánh phá ấp chiến đấu Tân Phú, Tân Thạnh. Nhiều cuộc đụng độ giữa lực lượng du kích xã, địa phương quân huyện Tân Châu - An Phú xảy ra. Anh em chiến sĩ chiến đấu dũng cảm bảo vệ từng cụm tre, từng hào chiến đấu. Nhiều anh em chiến sĩ hy sinh, trong trận càn ngày 29/12/1961 âm lịch (3/2/1962) đồng chí Minh Mẫn du kích xã và đồng chí Tư Dương cán bộ tuyên truyền huyện bị bắn chết, đồng chí Tư Dương còn bị chúng chặt đầu. Đồng chí Nguyễn Văn Rỡ du kích mật hướng dẫn tiểu đoàn về đánh khu trù mật, vì lộ đội hình, đồng chí Rỡ bị bắt tại sau ấp Vĩnh Thạnh. Tên Hữu Ý, đại đội trưởng biệt kích, đánh đập đồng chí rất dã man nhưng đồng chí Rỡ không khai báo điều gì, tên Hữu Ý mổ bụng đồng chí Rỡ lấy mật ăn. Các đồng chí Trắng, Đào Văn Năm, Đức, Lờ bị phát hiện hầm bí mật, địch bắt giải về Tân Châu tra khảo, nhưng cả bốn đều giữ vững khí tiết, không khai báo cơ sở, chúng giải về Bến Nước và bắn chết các anh ở Gò Chuối để đe dọa nhân dân trong vùng. Ngoài ra còn các đồng chí khác hy sinh như Lương Văn Ben, Nguyễn Văn Mỉnh (Điệp), Lư Văn Chỉ (xã đội trưởng), Nguyễn Văn Cáo (Cò Lũy) Chi ủy viên xã Tân An. Các đồng chí du kích như Triết, Ái, Vinh, Châu, Năm lần lượt hy sinh. Một số đồng chí khác bị bắt và số thoát ly khỏi xã.
Thời gian từ 1961 – 1964 là thời kỳ gay go, đấu tranh quyết liệt để giữ vững căn cứ Giồng Trà Dên, ta và địch giành giật nhau nhiều lần, đồng bào, lực lượng vũ trang huyện, du kích các xã hy sinh nhiều.
- Chiến đấu bảo vệ căn cứ 1965 - 1969
Qua những năm chiến đấu quân dân An Hòa Xương đã có những kinh nghiệm quý báu trong cách thức xây dựng căn cứ. Chi bộ xã Tân An vận động dân bỏ đất trống xung quanh căn cứ cho cây dại mọc lên um tùm, trồng thêm nhiều cây rừng làm vành đai để gài trái. Những gia đình có đất xung quanh căn cứ vui vẻ hiến đất. Anh em du kích và quần chúng tham gia làm ô chiến đấu, hầm chông, làm chiến hào.
Từ năm 1965 - 1967, hơn 10.000 mét chiến hào trong rừng tre được đào dưới tầm pháo địch, trung bình mỗi đêm chúng bắn vài ba chục đạn pháo vào căn cứ nhưng quần chúng vẫn có mặt vài trăm người tham gia đào công sự, ô chiến đấu, làm chòi canh giữa bụi tre, đào hầm gài chông xung quanh căn cứ gắn bảng “cấm các em bé lại gần” hay “binh sĩ dừng bước, để Mỹ đi trước”…
Có ô chiến đấu lực lượng du kích Tân An, Vĩnh Hòa được củng cố và phát triển. Đồng chí Năm Trung bí thư xã Tân An, đồng chí Đỗ Sơn Hà xã đội trưởng phát triển du kích xã lên 18 tay súng gan dạ, các ấp đều có du kích mật được trang bị vũ khí đầy đủ có thể đủ sức chống các cuộc càn quét của giặc.
Ngày 30/11/1964, 1 tên cố vấn Mỹ chết và 5 tên lính bị thương vì nhổ hầm chông ở am Lôi Thôi. Tên Lê Hồng Tươi đi khảo sát trận đánh ở Vĩnh Xương cùng 1 tên cố vấn Mỹ bị lực lượng địa phương quân huyện bắn pháo gần đồn diệt chết cả hai. Đồng bào An Hòa Xương nhẹ bớt được một tên địch nguy hiểm.
Năm 1965, địch tiến hành công tác “Mặc Lan” tiêu diệt lực lượng địa phương quân huyện và du kích ở Giồng Trà Dên.
Tháng 3/1965, 1 trung đội địch ở đồn Tam Giác kết hợp 1 trung đội khác tấn công vào ô chiến đấu rạch Ông Tước, du kích diệt 3 tên lính đồn Tam Giác. Địch rút lui.
Ngày 25/11/1965, 1 tiểu đoàn Sư đoàn 9 kết hợp cùng lực lượng địa phương càn vào căn cứ. Để chuẩn bị cho bộ binh tràn vào, máy bay phản lực đánh 4 lượt bom hơn 120 quả lớn nhỏ. Pháo từ tàu trên sông Tiền, từ cụm pháo An Phú bắn tới tấp trên 200 quả. Cây cối, rừng tre bị bật gốc ngã nghiêng, nhà dân xung quanh bốc cháy. Dứt đợt bom địch tràn vào. Với quân số ít hơn địch cả trăm lần, chỉ có 1 trung đội địa phương quân huyện và du kích xã, các đồng chí thực hiện chiến thuật nằm im chờ địch vào sâu. Sau khi đánh 4 đợt bom, chúng chia đội hình ra làm hai phía tiến sâu vào chòm tre ông Bảy Lưỡng và rạch ông Tước. Với tinh thần dũng cảm, các chiến sĩ bám công sự, dõi theo đội hình của địch đợi lệnh chỉ huy nổ súng. 4 giờ chiều các chiến sĩ ta nổ súng đồng loạt. Chiếc trực thăng đầm già đảo vòng bắn bom khói chỉ điểm đánh đợt bom thứ 5. Đồng chí Tư Phong ra lệnh cho anh em chiến sĩ mở đường cho địch rút. Trong trận này ta hy sinh 3 đồng chí và bị thương 2 chiến sĩ khác. Về phía địch, Sư đoàn 9 chết và bị thương hơn 30 tên, đặt biệt diệt được tên Uông đại đội trưởng biệt động. Sau trận chống càn lớn này, nhân dân chiến sĩ có niềm tin sẽ giữ được căn cứ.
Năm 1966, địch tăng cường đồn bót xung quanh căn cứ, đồn trung tâm cách chợ Tân An 1 km do 1 đại đội biệt kích đóng giữ, 1 cụm pháo 2 khẩu 105 ly. Chúng lập lại xã Vĩnh Hòa, tách ra khỏi xã Tân An. Mỗi xã có một cuộc cảnh sát do 1 sĩ quan cảnh sát chỉ huy. Căn cư Giồng Trà Dên vẫn là mục tiêu chúng tiêu diệt. Chúng bắn pháo hàng đêm vào căn cứ. Chỉ có khi nào lực lượng của tỉnh, của khu về chúng mới dám tấn công vào.
Từ năm này, lực lượng địa phương quân huyện thường xuyên có mặt tại căn cứ để đi hoạt động sang các xã Vĩnh Xương, Vĩnh Hậu, Vĩnh Lộc, Long Phú. Bộ đội tỉnh do các đồng chí Tám Sử, Năm Sương, Tư Khai, Sáu Sên chỉ huy thỉnh thoảng đưa cả tiểu đoàn về đứng chân. Khi bộ đội về đây, đồng bào Giồng Trà Dên đón tiếp, cung cấp lương thực, đóng góp tài chánh, tham gia dân công, tải đạn, tải thương và đưa con em vào lực lượng vũ trang.
Quân dân ta đánh địch không chỉ chiến đấu vũ trang mà cả cả về chính tri, binh vận. Đồng chí Huỳnh Thị Lào vận động Mạnh, lính đồn biệt kích, đổ axít vào khẩu pháo để phá hủy. Nhưng vì axít quá loảng nên 2 khẩu pháo chỉ hư chút ít. Mạnh, Chen giả vờ nhậu say đánh nhau với 3 tên Mỹ (cố vấn đồn) và nhốt chúng vào thùng phuy. Đầu năm 1967, đại đội biệt kích của Hữu Ý vừa thành lập đóng tại đồn trung tâm. Ngày ra mắt, gió thổi cột cờ bị gãy, nhân sự kiện này ban binh vận huyện chỉ đạo cho bộ phận đấu tranh chính trị của xã do bà Tư Trầm dẫn đầu, tác động tinh thần mê tín của địch; bà Tư Trầm cho rằng ngày đầu tiên xui như vậy sẽ bị chết hết. Sau đó cả đại đội sợ quá tự tan rã. Bà Tư Trầm được tỉnh tặng bằng khen.
Vào 9/1966, lợi dụng mùa nước nổi Trung đoàn 14 của Sư đoàn 9 địch kết hợp cùng nghĩa quân, có pháo binh yểm trợ bao vây căn cứ Giồng Trà Dên. Chúng dọa sẽ nhanh chóng tiêu diệt “Việt cộng” ở căn cứ trong trận tấn công này. Sáng sớm, chúng tập trung hỏa lực cho pháo bắn cấp tập để dọn đường, bộ binh tấn công từ rạch Lôi Thôi. Dù lực lượng ít hơn địch nhiều lần, hỏa lực địch mạnh, chiến sĩ địa phương quân huyện và du kích các xã bám địa hình, nhờ vùng đất quen thuộc, nhờ rừng tre che chở, quân ta nhanh chóng phản công địch. Hết đợt xung phong này, đến đợt xung phong khác của địch đều bị đẩy lùi. Đến chiều, bọn chúng không chiếm được mục tiêu và cho rút quân. Gần đại đội địch vừa chết vừa bị thương trong đó có 3 sĩ quan. Bọn địch hết dám nghênh ngang. Có một chuyện khá thú vị, số là khi tạm nghỉ, một tên đại úy bạt tay tên lính cần vụ vì tên này mời anh ta ăn cơm theo thói quen gọi cấp bậc, anh ta chửi thề nói đừng gọi như vậy sợ du kích nghe bắn tỉa.
Trong năm 1967, địch liên tiếp mở cuộc càn vào căn cứ với lực lượng của tiểu khu Châu Đốc, biệt khu 44 nhằm làm tiêu diệt lực lượng cách mạng. Tổ chức nhiều cuộc hành quân mang tên Thất Sơn đánh vào căn cứ dài ngày. Mỗi trận chỉ cách nhau hai hay ba ngày, có đợt kéo dài một tuần lễ.
Sau đợt đánh kéo dài tuần lễ, hai ngày sau, tức là ngày 5/7/1967, tiểu khu Châu Đốc phối hợp với chi khu Tân Châu mở cuộc hành quân Thất Sơn 1967 với lực lượng tham dự gồm có sư đoàn 9, 2 đại đội địa phương quân, 5 trung đội nghĩa quân và giang đoàn 26 xung phong, có trọng pháo yểm trợ, trong khi đó lực lượng cách mạng chỉ có 1 trung đội địa phương quân huyện do đồng chí Tám Bê chỉ huy và du kích xã hỗ trợ bên ngoài. Dù lực lượng đông đảo với 6 đợt bom hàng trăm quả bắn vào căn cứ, bộ đội huyện, du kích các xã chưa hết mệt mỏi sau đợt chống càn dài ngày, nhưng đã chiến đấu ngoan cường làm địch thiệt hại nặng: 13 tên chết, có 1 đại úy (tên Tệt) và hàng chục tên khác bị thương. Địch kéo ra ngoài 300 mét gọi máy bay đến bắn, ta hy sinh đồng chí Quang. Sau đó địch bắn pháo đến chạng vạng. Tên chỉ huy cử ông Bảy Nhơn vào căn cứ điều đình ngưng bắn cho chúng lấy xác, không tiếp tục đánh nữa.
Vì lòng nhân đạo ta cho chúng vào lấy xác. Xong, chúng kéo ra bờ sông Vĩnh Hòa rút binh. Chấm dứt cuộc càn Thất Sơn vào Giồng Trà Dên. Vào cuối tháng 10/1967, lực lượng địa phương quân huyện cùng du kích xã Phú Vĩnh phá lộ Tân Châu - Châu Đốc, địa phương quân huyện dự định đánh pháo vào dinh quận Tân Châu và khu gia binh nhưng không thành.
Ngày 30/10/1967 Sư đoàn 9 lại tổ chức trận càn vào căn cứ Giồng Trà Dên, lực lượng ta ở căn cứ chỉ có 1 tiểu đội đặc công địa phương quân và 1 tiểu đội du kích. Đồng chi Năm Trung bí thư, đồng chi Sơn Hà xã đội trưởng thay nhau chỉ huy. Trận càn kéo dài 3 ngày. Ngày thứ nhất ta không nổ súng chỉ gài bãi chết. Ngày thứ hai, địch trở lại, vì gió mùa đông bắc, lục bình trôi dạt vào bìa căn cứ, chúng mắc kẹt đám lục bình chìm xuồng chết một số tên. Thừa cơ hội đó, lực lượng cách mạng nổ súng làm chúng chết và bị thương trên 30 tên. Trung đội biệt kích của tên Phát lọt vào bãi chết, mìn nổ, chỉ còn vài tên sống sót, có 2 cố vấn Mỹ thiệt mạng. Du kích hy sinh 2 đồng chí.
Địch bắn pháo liên miên, quân ta không thể co cụm lại căn cứ vì dễ bị trúng pháo, Huyện ủy chỉ đạo các xã Tân An, Vĩnh Hòa ,Vĩnh Xương huy động lược lượng mở rộng căn cứ, tu bổ lại các ô chiến đấu, đào đắp lại chiến hào bị pháo bắn phá, tăng cường thêm tuyến đường cộ Cây Khế và rạch Ông Tà. Hỗ trợ cho Vĩnh Lộc xây dựng đám găng Ô Trích, đám găng Tư Nhen, đám găng Ba Lùn thành những lõm căn cứ giữa cánh đồng 5 xã tạo thế hỗ trợ cho Giồng Trà Dên và làm chủ cánh đồng 5 xã. Làm ô chiến đấu gần đồn bót địch, ở những đám tre thưa là những nơi mà địch ít nghi ngờ đến.
Căn cứ được mở rộng, tạo thế liên hoàn, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tấn công Xuân Mậu Thân.
Cuối năm 1967, tiểu đoàn 3 mang danh nghĩa đạo Hòa Hảo (tiểu đoàn của sư thúc Huỳnh Văn Trí) được thành lập để mở rộng vận động đồng bào Hòa Hảo. Chi bộ xã Tân An đưa đồng chí Năm Trung (bí thư xã), Ba Hài, Tư Nhị cùng nhiều du kích khác gia nhập. Đồng chí Đỗ Sơn Hà thay đồng chí Trung làm bí thư xã, lãnh đạo.
Được tin tiểu đoàn của ông Mười thành lập ra mắt, một số chức sắc tôn giáo, đồng bào vùng căn cứ vô cùng phấn khởi, tin tưởng cách mạng sẽ đoàn kết dân tộc, lương giáo đánh đuổi kẻ thù chung. Nhân dân đã góp 500 giạ gạo cho tiểu đoàn 3 và sẵn sàng tham gia dân công hỏa tuyến, phục vụ chiến trường tải đạn, tải thương… mỗi chuyến có hàng trăm người.
Chuẩn bị cho cuộc võ trang tuyên truyền vùng O, hơn 10 tấn súng ống, đạn dược được chuyển về căn cứ, tình báo địch theo dõi, phát hiện. Ngày 18/3/1968, đặc khu 44 mở cuộc hành quân đánh vào căn cứ với quân số 2 tiểu đoàn của sư đoàn 9 và lực lượng địa phương quân, nghĩa quân đóng tại Tân An có pháo binh yểm trợ. Trong khi đó lực lượng cách mạng có 2 tổ trinh sát, cùng dân công và du kích Tân An ở bên ngoài. Đồng chí Chín Công (UVTV Huyện ủy) chịu trách nhiệm hậu cần cho chiến dịch đi vùng O cùng ban chỉ huy đại đội tổ chức cuộc chống càn. Sau đợt pháo, địch chia nhiều mũi tiến công. Lực lượng của sư đoàn 9 chiếm được một chiến hào. Ban chỉ huy ổn định lại quân số tổ chức phản công. Tổ trinh sát của đồng chí Tùng đánh quân tên Tám Đền, hai bên quần nhau, có lúc giữa ta và địch cách nhau chừng 100 mét. Pháo địch bắn dữ dội, lửa cháy, đồng chí Sáu Thạch, Năm Thơ, Tám Hồng bất chấp gian nguy ra dập lửa. Đến 3 giờ chiền địch rút quân. Theo báo cáo của địch, trong trận này chúng chết 8, bị thương 5 người. Về phía cách mạng, dù bom đạn tơi bời, nhưng nhờ có chiến hào, rừng tre che chở, không ai hy sinh hoặc bị thương. 5 tấn vũ khí đạn dược được bảo toàn.
Rạng sáng ngày 24/3/1968, địa phương quân huyện pháo kích vào Chi khu Tân Châu. Quân ta triển khai lực lượng tại cây số 5 xã Long Sơn và chiếm giữ đoạn đường ở cây số 3 thuộc lộ đá Tân Châu - Châu Đốc. Tiểu đoàn 1 lập trận địa dài từ cây số 14 đến 16 xã Phú Lâm, bao vây đồn Tân Phú (số 15), dùng DKZ 75 và súng phun lửa diệt đồn. Trong vùng đóng quân, lực lượng chính trị cùng phối hợp cùng bộ đội phát động quần chúng tín đồ Hòa Hảo trừ gian, phá tề, họp mít tinh, treo biểu ngữ, rải truyền đơn. Lần đầu tiên kể từ lúc kháng chiến chống Pháp, bộ đội cách mạng có mặt tại vùng này, tạo chuyển biến nhận thức, niềm tin và khí thế cách mạng ở vùng O.
Ngày 26/3/1968, lực lượng vũ trang tuyên truyền ở vùng O rút quân. Du kích xã Tân An tổ chức án ngữ ở ấp Tân Hậu A1, mở đường cho lực lượng tỉnh rút về căn cứ. Khi đến căn cứ Giồng Trà Dên, các Tiểu đoàn 1, 2 rút về căn cứ B1, Tiểu đoàn 3 tiếp tục ở lại.
Ngày 29/3/1968 tiểu khu Châu Đốc phối hợp cùng chi khu Tân Châu càn vào căn cứ có phi cơ yểm trợ. Chúng bắt dân các xã khác đến đốn tre, phá địa hình nhằn thực hiện kế hoạch chiếm giữ dài ngày. Quân dân ta đoàn kết một lòng bám trụ chiến đấu với địch. Cuộc hành quân kéo dài chỉ một tuần lễ buộc phải chấm dứt. Kế hoạch thất bại, chúng quay sang khủng bố gia đình cơ sở, ngày 10/4/1968, lực lượng cảnh sát chi khu Tân Châu đến xã Vĩnh Hòa bắt 13 người chúng tình nghi “tuyên truyền cho Việt Cộng”.
Cuối tháng 9/1968, địch lại tiếp tục kế hoạch phá địa hình căn cứ. Chúng vừa bắt dân đi phá, vừa cho 4 xe ủi đất đến ủi rừng tre. Một binh sĩ đại đội 157 địch đạp mìn chết và 1 tên bị thương ngay trong ngày đầu. Lực lượng du kích xã bố trí đánh xe ủi, 1 chiếc bị hư. Địch rút quân. Rừng tre vẫn chưa thiệt hại bao nhiêu. Địch rút đi, quân dân Tân An, Vĩnh Hòa ra sức sửa chữa lại ô chiến đấu cũ, làm thêm ô chiến đấu mới, bảo vệ căn cứ an toàn, làm bàn đạp cho tỉnh chuẩn bị mở các cuộc võ trang tuyên truyền vận động đồng bào Hòa Hảo ở huyện Phú Tân (huyện Phú Tân được thành lập vào tháng 8/1948). Đồng bào náo nức cung cấp lương thực, tham gia dân công, tổ chức xuồng ghe cho bộ đội vượt sông Kinh Xáng.
Ngày 23/2/1969, lực lượng võ trang tỉnh và địa phương quân huyện tiếp tực tổ chức đợt trang tuyên truyền, lực lượng xã chịu trách nhiệm án ngữ tại Kinh Xáng suốt chiến dịch tư ngày 23 đến 28/2/1969, du kích xã đã hoàn thành nhiệm vụ, giữ vững trận địa cho đoàn đi về căn cứ Giồng Trà Dên an toàn. Trong ngày 24/2 máy bay địch đến bắn phá Giồng Trà Dên làm 52 nhà dân bị cháy rụi, 1 người dân chết và 3 người bị thương.
Ngày 16/3/1969, lực lượng ta tổ chức đợt võ trang tuyên truyền lần thứ ba trong năm, hàng trăm đồng bào tham gia dân công, dù bị địch đe dọa tù đài, lòng dân không nao núng.
Ngày 12/5/1969, Ban chỉ huy lực lượng vũ trang huyện đưa quân về Giồng Trà Dên và xã Vĩnh Hòa đứng chân. Bấy giờ, bọn tề xã hoang mang đến cực độ, nhiều tên không dám ngủ nhà, hàng đêm chúng phải vào các cứ điểm phòng vệ dân sự hoặc ngủ tại hội đồng xã. Hoạt động của chúng co lại.
Đến tháng 6/1969, khi lực lượng vũ trang tỉnh hoạt động mở vùng biên giới, địch tập trung lực lượng chủ lực, biệt kích đánh phá ác liệt vào căn cứ Giồng Trà Dên, Giồng Găng, Ô Trích… đánh bật lực lượng cách mạng ra khỏi căn cứ, cho xe ủi đất ủi ngã hết rừng tre, sau đó dùng máy bay bắn bom dầu đốt phá địa hình. Chúng đóng thêm đồn Núi Nổi. Bọn lính nghĩa quân thường cải trang thành nông dân trà trộn vào các trại ruộng của quần chúng để phát hiện cán bộ ta. Mất căn cứ, tình hình căng thẳng, phong trào quần chúng xuống, nhất là thời điểm địch thiết lập xong các tổ chức Phụng Hoàng, Thiên Nga quyết tiêu diệt hạ tầng cơ sở cách mạng. Chúng lập bảng trận liệt (dân chúng quen gọi bảng bìa đen) ghi tất cả ai trong địa bàn từng xã thoát ly hoặc “nằm vùng” để tìm cách truy tìm bắt bớ.
edited Mar 1 '18 lúc 4:25 pm