Khu VIII - Trung Nam Bộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)
http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=25941.160
II - ĐẨY MẠNH THẾ TIẾN CÔNG, ĐÁNH THẮNG TỪNG BƯỚC CHIẾN LƯỢC
“VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
1 - Đánh tiêu diệt, làm tan rã lực lượng biệt kích Mỹ, bảo đảm hành lang tiếp vận thông suốt
2 - Trận đánh dài ngày tại đồi Tức Dụp, An Giang
Vùng Bảy Núi của tỉnh An Giang có vị trí chiến lược quan trọng đối với cả ta và địch. Đây là vùng núi duy nhất của miền Trung Nam Bộ, nằm giáp vùng biên giới Campuchia (đoạn Tàkeo - Cambốt), là vùng có đông đảo đồng bào Khơme. Từ xưa những sĩ phu yêu nước đã về đây tập hợp lực lượng, dựng cờ khởi nghĩa đánh Pháp. Và nơi đây là căn cứ của Tỉnh ủy Long Xuyên, Châu Đốc, An Giang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đây còn là mắt xích quan trọng của hành lang chiến lược nối miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Do đó, trong quá trình kháng chiến ta và địch đều tranh chấp quyết liệt vùng Bảy Núi.
...
...
Cuộc chiến đấu kéo dài hơn 4 tháng. Tỉnh theo dõi thấy đã đến lúc phải cho lực lượng rút ra, phân tán sang các hang nhỏ đánh du kích, hỗ trợ phá bình định, phát động quần chúng đấu tranh. Đến đêm hôm đó, trời tối đen như mực. Toàn bộ lực lượng ta, gồm cả thương binh và em bé sơ sinh được sinh ra trong những ngày ở hang, bí mật luồn qua vòng vây của địch ra ngoài.
Sáng hôm sau, sau những đợt bom, pháo dữ dội, địch lò dò lên núi. Không gặp sức chống trả, chúng vào được hang. Tên Tư lệnh cuộc hành quân cho bắn quả pháo tượng trưng thứ 400.000, chấm dứt cuộc hành quân.
Đây là cuộc chiến đấu dài ngày nhất trong lịch sử hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của Khu VIII. Mọi bài bản, vũ khí hiện đại, tướng A. Bram đều cho đem ra dùng với một vùng đồi núi nhỏ hẹp và một đội quân cách mạng nhỏ bé, quân số ít hơn chúng đến 600 lần. Chúng còn đưa cả bọn thành viên hạ nghị viên của ngụy quyền Sài Gòn đến nhiều lần để động viên binh sĩ. Chúng sử dụng vào trận đánh hơn 100 thiết giáp, hơn 100 khẩu pháo, hàng trăm phi vụ, hàng trăm tấn bom nổ, xăng đặc, vũ khí hóa học, 400.000 quả đạn pháo. Trận đánh dài ngày này đã gây cho chúng thương vong nặng nề, hơn 2.000 tên bị diệt, hàng chục tên bị bắt sống, hơn trăm tên bỏ ngũ. Ta bắn rơi 3 máy bay phản lực, nhiều trực thăng, bắn cháy 11 xe M113, phá hủy một trận địa pháo 105, thu hàng trăm khẩu súng các loại, rất nhiều đạn và lựu đạn. Ở nhiều ấp trong khu vực, đồng bào đấu tranh thắng lợi, bám được ruộng vườn.
Trong thời gian diễn ra cuộc chiến đấu ở đồi Tức Dụp, đường hành lang chiến lược từ Miền về khu IX đã kịp thời chuyển xuống ngả Hà Tiên.
Đến giữa năm 1969, Sư đoàn 1 bộ binh của Miền trên đường hành quân về Khu IX đã được một phần lực lượng cùng với bộ đội huyện tri Tôn đánh chiếm lại một số khu vực ở núi Cô Tô và đồi Tức Dụp, cùng với lực lượng ở Tri Tôn, Tịnh Biên tập kích căn cứ Chi Lăng; phục kích ở khu vực núi Bà Đội Om, diệt 17 xe quân sự, phá hủy 4 pháo, hạ 1 máy bay, diệt gần hết 1 tiểu đoàn địch. Cũng tại khu vực núi Bà Đội Om, ta đánh trận giao thông thứ 2, diệt 4 xe, diệt tên trung tá Đỏm, Tiểu đoàn trưởng bảo an, ác ôn. Sau đó, diệt căn cứ biệt kích Ba Xoài. Sau đó, địch lại dùng lực lượng lớn tiến công ác liệt, can quét dài ngày, chiếm lại vùng Bảy Núi. Tỉnh ủy và Tỉnh đội An Giang rút về căn cứ ở Vạt Lài biên giới Campuchia. (căn cứ B3 Vạt Lài, B2 Cả Hàng).
Hơn 4 tháng chiến đấu, tranh chấp ác liệt với địch ở đồi Tức Dụp, được sự hỗ trợ của nhân dân, bộ phận nhỏ lực lượng vũ trang huyện Tri Tôn đã thu hút, kìm chân gần hai vạn lượt quân địch, tiêu hao, tiêu diệt nhiều địch, tạo điều kiện cho vùng nông thôn đánh phá bình định, giữ được cầu hành lang, căn cứ, tạo điều kiện chuyển hành lang xuống Hà Tiên để đưa hàng cho Khu IX.
3 - Cuộc hành quân vũ trang tuyên truyền vào vùng tôn giáo Hòa Hảo ở Phú Tân và Chợ Mới
Vùng Phú Tân và Chợ Mới là vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Đây là vùng đông dân, nhiều của, phần lớn đồng bào theo đạo Hòa Hảo. Phú Tân là trung tâm chính trị của đạo Hòa Hảo, có Tổ Đình và gia đình giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, có cả trụ sở của Trung ương giáo hội. Đây là vùng địch chiếm đóng lâu đời, cơ sở Đảng, chính trị, binh vận còn yếu. Muốn tiến xuống vùng Phú Tân (Chữ O), bộ đội An Giang phải vượt qua vành đai phong tỏa của kênh xáng Tân An, vùng kiểm soát dày dặc của hệ thống đồn bốt trên lộ đá Châu Đốc - Tân Châu. Xuống vùng Chữ O là lọt vào vòng vây của địch, tiến hoặc rút lui chỉ có một đường. Tuy hết sức khó khăn, nhưng bộ đội An Giang đã có mấy lần xuống được vùng Chữ O, có lần tiến sát Tổ Đình. Còn từ Kiến Phong sang Chợ Mới rồi trở về cũng chỉ có một hướng từ Thanh Bình vượt sông Tiền, khi trở về cũng phải theo hướng ấy.
An Giang và Kiến Phong thực hiện nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền tiến vào vùng Chữ O và Chợ Mới trong tình thế năm 1969 thật hết sức khó khăn, phức tạp. Các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy và lực lượng vũ trang của An Giang, đang từ các căn cứ B1, B2, B3 hoạt động về. Còn Kiến Phong thì cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội còn bám trụ trên địa bàn Xẻo Quít, kênh 1, bờ bao Ông Kiệu, cơ động qua các lõm căn cứ vùng Kiến Văn. Bộ đội tỉnh, du kích, cấp ủy xã, huyện còn bám trụ được trên đại bàn Kiến Văn, bắc Cao Lãnh, bắc Thanh Bình, bắc Hồng Ngự nhưng phải hoạt động trong tình thế hết sức khó khăn.
Vào đầu tháng 5 năm 1969, hai tỉnh An Giang và Kiến Phong nhận được chỉ thị của Khu đưa bộ đội cùng với Ban Hòa Hảo vận và các cán bộ dân vận tiến xuống vùng Chữ O và qua Chợ Mới. Hai tỉnh được lệnh hợp đồng tiến công cùng lúc vào vùng xung yếu, vũ trang tuyên truyền phát động đồng bào tín đồ Hòa Hảo hướng về cách mạng. Cuộc hành quân mang danh nghĩa “bộ đội Huỳnh Sư Thúc” về thăm tín đồ, tuyên truyền đồng bào đoàn kết chống Mỹ - ngụy, bộ đội không đánh đồn bốt, chỉ đánh trả những lực lượng tiến công để bảo tồn lực lượng, giữ trung lập với ban quan quân của Lương Trọng Tường và vận động ban trị sự và nhân dân tự vệ giao súng cho cách mạng.
Huỳnh Sư Thúc, tức sư thúc Huỳnh Văn Trí, thường gọi là ông Mười Trí là anh em kết nghĩa với giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ. Trong kháng chiến chống Pháp. Ông là Chỉ huy trưởng chi đội 4 liên quân Bình Xuyên. Ông tập kết ra Bắc, là Thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Trở về Nam, ông được đưa về khu VIII tham gia trong Ban Hòa Hảo vận cùng với các đồng chí Tư An - Khu ủy viên, Ba Giảng, Tám Vị, Tư Râu, Mười Tôn, Bảy Tỉnh. Trong số này có những người vốn là tín đồ, cán bộ quân sự Hòa Hảo theo cách mạng. Các đồng chí tổ chức tại căn cứ B1 Phú Hữu của An Giang, một địa điểm thật trang trọng để Sư Thúc gặp đại diện Tổ Đình, các ban trị sự đạo, các tín đồ cao nhiên của đạo dặn dò việc đạo, việc nước. Thư của Huỳnh Sư Thúc được chuyển tới cô Năm Biên, em gái giáo chủ Huỳnh Phú Sổ ở Tổ Đình và đến nhiều vị cao niên, chức sắc của đạo. Lần lượt, các vị này đến thăm viếng Huỳnh Sư Thúc ở căn cứ B1. Tại đây, Sư Thúc nhắc nhở các tín đồ nhớ lời thầy tu tại gia, đoàn kết lương giáo, không nghe những lời sai trái, không cầm súng đi lính cho giặc, không làm việc xấu, hại đến con đường chân tu của đạo. Các vị chức sắc, tín đồ cao niên tiếp thu ý kiến của Sư Thúc một cách thành kính. Ai cũng hứa sẽ vận động bà con tín đồ làm theo. Từ những cuộc gặp gỡ ấy lan ra, trong lòng nhiều tín đồ Hòa Hảo đã có sự chuyển hóa gần gũi, hiểu biết cách mạng hơn. Huỳnh Sư Thúc đi theo cách mạng, kháng chiến chống Pháp và đi tập kết, ai cũng biết. Như vậy thì cách mạng và người kháng chiến không đối lập với đạo, cách mạng đâu phải là kẻ thù như lời tuyên truyền xuyên tạc của bọn địch và bọn cầm đầu phản động trong đạo. Những cuộc gặp có ý nghĩa ấy đã giúp cán bộ cách mạng dần dần trở lại bám được trong dân, xây dựng được nhiều cơ sở chính trị, binh vận trong đồng bào tín đồ nhiều xã ở tỉnh An Giang và huyện Chợ Mới, tỉnh Kiến Phong.
Tổng kết những đợt đưa bộ đội công tác vũ trang tuyên truyền ở vùng có đông đảo tín đồ Hòa Hảo. Đồng chí Nguyễn Minh Đường - Bí thư Khu ủy đã phát biểu, trình bày rõ nội dung chỉ đạo trong Nghị quyết của Thường vụ Khu ủy về công tác vận động cách mạng trong đồng bào tín đồ Hòa Hảo với các Tỉnh ủy An Giang và Kiến Phong như sau:
Ở khu ta, ngoài Đồng Tháp Mười đất rộng người thưa và những nơi dân cư đông đúc, quần chúng đã qua nhiều lần nổi dậy làm chủ xã, ấp còn có một số khu vực có hàng triệu đồng bào tôn giáo và dân tộc mà đa số là nông dân cũng bị áp bức, đau khổ như nông dân nơi khác. Họ có khả năng nổi dậy đánh đổ đế quốc và tay sai để giải phóng đất nước và tự cứu lấy mình.
Ở nhiều vùng trong ba tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc đại đa số đồng bào là tín đồ đạo Hòa Hảo, quần chúng ở những nơi đây bị hai hệ thống áp bức và kìm kẹp là đế quốc Pháp, Mỹ và bọn đứng đầu tôn giảo, phản động, làm tay sai cho địch. Mỹ - ngụy xem đây là vùng bình định quốc gia tương đối an toàn, chiến tranh không về tới. Sự áp bức bóc lột, kìm kẹp khắc nghiệt là của bọn côn đồ lưu manh thuộc lực lượng võ trang và ban trị sự các loại của các phe phái thuộc hai đảng Dân xã Ba Sao và Dân xã Chữ Vạn. Lực lượng vũ trang của Năm Lửa, Ba Cụt, Hai Ngoán, Nguyễn Giác Ngộ được bọn xâm lược Pháp dựng lên cát cứ từng vùng, thực hiện chia rẽ lương, giáo quyết liệt chống Việt Mai. Đồng bào bị khủng bố, cướp bóc, vơ vét, đôn quân bắt lính phục vụ chiến tranh xâm lược.
Lâu nay, tín đồ Hòa Hảo đa số là nông dân, bị đầu độc tư tưởng chống cộng, thù hận Việt Minh bằng sự kiện “Đức Thầy thọ nạn”. Họ cũng căm thù đế quốc, phong kiến, địa chủ ác bá, cường hào như nông dân ở các nơi khác. Họ cũng có tinh thần yêu nước, chống ách thống trị, áp bức của đế quốc, phong kiến đã gây đau khổ cho họ và cũng muốn nổi dậy đánh đổ bọn chúng để đổi đời.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, những nơi này là vùng trắng, không có cơ sở Đảng và nòng cốt cách mạng. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, một số đảng viên hồi cư đã về vùng này lãnh đạo quần chúng nổi dậy đấu tranh.
Từ năm 1955-1959, do Mỹ - Diệm thực hiện chính sách khủng bố, tàn sát, bắt bớ, tù đày tín đồ và chức sắc Hòa Hảo, gây căm thù sâu sắc trong đạo Hòa Hảo, nên khi có cao trào Đồng khởi, tấn công và nổi dậy toàn Khu (1960), đồng bào tín đồ Hòa Hảo đã cùng với các tầng lớp nhân dân nổi dậy tấn công địch để làm chủ, diệt, làm tan rã địch ở nhiều xã, ấp. Nhưng do lãnh đạo Đảng bộ địa phương lúc ấy chưa chú trọng đúng mức đến việc đi sâu tổ chức vận động quần chúng tín đồ nổi dậy cầm súng và tiến công địch, giữ vững quyết tâm ở cơ sở mà ỷ lại vào lực lượng vũ trang bên ngoài, cho nên khi địch đưa lực lượng đến càn quét, khủng bố, đàn áp, lực lượng vũ trang rút đi thì đồng bào lại bị kìm kẹp trở lại.
Cuộc đấu tranh cách mạng để giải phóng miền Nam phải có sự đóng góp của đồng bào tín đồ Hòa Hảo, làm cho đồng bào hiểu rõ và tự giác đi theo Đảng, tự mình đứng lên làm cuộc cách mạng để giành thắng lợi từng bước, đánh đổ địch từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Mục tiêu trước mắt cần giành được phải là chính đồng bào tín đồ Hỏa Hảo tự đứng lên diệt ác ôn và làm tan rã địch ở cơ sở xã, ấp để giành quyền làm chủ, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, tấn công ba mặt quân sự, chính trị, binh vận, diệt và làm tan rã địch ở các nơi khác đã làm.
Nhiệm vụ hiện nay là phải tổ chức được càng nhiều cán bộ bí mật cùng ăn ở, làm việc với đồng bào tại chỗ để xây dựng cơ sở, bắt rễ trong quần chúng. Đồng thời có kế hoạch đưa lực lượng vũ trang tuyên truyền vào để tạo cơ hội cho quần chúng tiếp cận được với cách mạng, hỗ trợ cho công tác xây dựng cơ sở Đảng tại chỗ. Vì thế, lực lượng vũ trang tiến vào vùng Hòa Hỏa lần này dứt khoát không phải là một hành động quân sự tác chiến diệt địch đơn thuần mà phải có mục đích chính trị rõ rệt. Từ hoạt động của bộ đội cho đến hành động của cán bộ, đảng viên đều phải nắm vững mục đích đó và xuất phát từ tình hình thực tế ta, địch tại chỗ mà triển khai kế hoạch cho thích hợp.
## Khu VIII - Trung Nam Bộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975)
http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=25941.160
**II - ĐẨY MẠNH THẾ TIẾN CÔNG, ĐÁNH THẮNG TỪNG BƯỚC CHIẾN LƯỢC
“VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ**
1 - Đánh tiêu diệt, làm tan rã lực lượng biệt kích Mỹ, bảo đảm hành lang tiếp vận thông suốt
**2 - Trận đánh dài ngày tại đồi Tức Dụp, An Giang**
Vùng Bảy Núi của tỉnh An Giang có vị trí chiến lược quan trọng đối với cả ta và địch. Đây là vùng núi duy nhất của miền Trung Nam Bộ, nằm giáp vùng biên giới Campuchia (đoạn Tàkeo - Cambốt), là vùng có đông đảo đồng bào Khơme. Từ xưa những sĩ phu yêu nước đã về đây tập hợp lực lượng, dựng cờ khởi nghĩa đánh Pháp. Và nơi đây là căn cứ của Tỉnh ủy Long Xuyên, Châu Đốc, An Giang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đây còn là mắt xích quan trọng của hành lang chiến lược nối miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Do đó, trong quá trình kháng chiến ta và địch đều tranh chấp quyết liệt vùng Bảy Núi.
...
...
Cuộc chiến đấu kéo dài hơn 4 tháng. Tỉnh theo dõi thấy đã đến lúc phải cho lực lượng rút ra, phân tán sang các hang nhỏ đánh du kích, hỗ trợ phá bình định, phát động quần chúng đấu tranh. Đến đêm hôm đó, trời tối đen như mực. Toàn bộ lực lượng ta, gồm cả thương binh và em bé sơ sinh được sinh ra trong những ngày ở hang, bí mật luồn qua vòng vây của địch ra ngoài.
Sáng hôm sau, sau những đợt bom, pháo dữ dội, địch lò dò lên núi. Không gặp sức chống trả, chúng vào được hang. Tên Tư lệnh cuộc hành quân cho bắn quả pháo tượng trưng thứ 400.000, chấm dứt cuộc hành quân.
Đây là cuộc chiến đấu dài ngày nhất trong lịch sử hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của Khu VIII. Mọi bài bản, vũ khí hiện đại, tướng A. Bram đều cho đem ra dùng với một vùng đồi núi nhỏ hẹp và một đội quân cách mạng nhỏ bé, quân số ít hơn chúng đến 600 lần. Chúng còn đưa cả bọn thành viên hạ nghị viên của ngụy quyền Sài Gòn đến nhiều lần để động viên binh sĩ. Chúng sử dụng vào trận đánh hơn 100 thiết giáp, hơn 100 khẩu pháo, hàng trăm phi vụ, hàng trăm tấn bom nổ, xăng đặc, vũ khí hóa học, 400.000 quả đạn pháo. Trận đánh dài ngày này đã gây cho chúng thương vong nặng nề, hơn 2.000 tên bị diệt, hàng chục tên bị bắt sống, hơn trăm tên bỏ ngũ. Ta bắn rơi 3 máy bay phản lực, nhiều trực thăng, bắn cháy 11 xe M113, phá hủy một trận địa pháo 105, thu hàng trăm khẩu súng các loại, rất nhiều đạn và lựu đạn. Ở nhiều ấp trong khu vực, đồng bào đấu tranh thắng lợi, bám được ruộng vườn.
Trong thời gian diễn ra cuộc chiến đấu ở đồi Tức Dụp, đường hành lang chiến lược từ Miền về khu IX đã kịp thời chuyển xuống ngả Hà Tiên.
Đến giữa năm 1969, Sư đoàn 1 bộ binh của Miền trên đường hành quân về Khu IX đã được một phần lực lượng cùng với bộ đội huyện tri Tôn đánh chiếm lại một số khu vực ở núi Cô Tô và đồi Tức Dụp, cùng với lực lượng ở Tri Tôn, Tịnh Biên tập kích căn cứ Chi Lăng; phục kích ở khu vực núi Bà Đội Om, diệt 17 xe quân sự, phá hủy 4 pháo, hạ 1 máy bay, diệt gần hết 1 tiểu đoàn địch. Cũng tại khu vực núi Bà Đội Om, ta đánh trận giao thông thứ 2, diệt 4 xe, diệt tên trung tá Đỏm, Tiểu đoàn trưởng bảo an, ác ôn. Sau đó, diệt căn cứ biệt kích Ba Xoài. Sau đó, địch lại dùng lực lượng lớn tiến công ác liệt, can quét dài ngày, chiếm lại vùng Bảy Núi. Tỉnh ủy và Tỉnh đội An Giang rút về căn cứ ở Vạt Lài biên giới Campuchia. (căn cứ B3 Vạt Lài, B2 Cả Hàng).
Hơn 4 tháng chiến đấu, tranh chấp ác liệt với địch ở đồi Tức Dụp, được sự hỗ trợ của nhân dân, bộ phận nhỏ lực lượng vũ trang huyện Tri Tôn đã thu hút, kìm chân gần hai vạn lượt quân địch, tiêu hao, tiêu diệt nhiều địch, tạo điều kiện cho vùng nông thôn đánh phá bình định, giữ được cầu hành lang, căn cứ, tạo điều kiện chuyển hành lang xuống Hà Tiên để đưa hàng cho Khu IX.
**3 - Cuộc hành quân vũ trang tuyên truyền vào vùng tôn giáo Hòa Hảo ở Phú Tân và Chợ Mới**
Vùng Phú Tân và Chợ Mới là vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Đây là vùng đông dân, nhiều của, phần lớn đồng bào theo đạo Hòa Hảo. Phú Tân là trung tâm chính trị của đạo Hòa Hảo, có Tổ Đình và gia đình giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, có cả trụ sở của Trung ương giáo hội. Đây là vùng địch chiếm đóng lâu đời, cơ sở Đảng, chính trị, binh vận còn yếu. Muốn tiến xuống vùng Phú Tân (Chữ O), bộ đội An Giang phải vượt qua vành đai phong tỏa của kênh xáng Tân An, vùng kiểm soát dày dặc của hệ thống đồn bốt trên lộ đá Châu Đốc - Tân Châu. Xuống vùng Chữ O là lọt vào vòng vây của địch, tiến hoặc rút lui chỉ có một đường. Tuy hết sức khó khăn, nhưng bộ đội An Giang đã có mấy lần xuống được vùng Chữ O, có lần tiến sát Tổ Đình. Còn từ Kiến Phong sang Chợ Mới rồi trở về cũng chỉ có một hướng từ Thanh Bình vượt sông Tiền, khi trở về cũng phải theo hướng ấy.
An Giang và Kiến Phong thực hiện nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền tiến vào vùng Chữ O và Chợ Mới trong tình thế năm 1969 thật hết sức khó khăn, phức tạp. Các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy và lực lượng vũ trang của An Giang, đang từ các căn cứ B1, B2, B3 hoạt động về. Còn Kiến Phong thì cơ quan Tỉnh ủy, Tỉnh đội còn bám trụ trên địa bàn Xẻo Quít, kênh 1, bờ bao Ông Kiệu, cơ động qua các lõm căn cứ vùng Kiến Văn. Bộ đội tỉnh, du kích, cấp ủy xã, huyện còn bám trụ được trên đại bàn Kiến Văn, bắc Cao Lãnh, bắc Thanh Bình, bắc Hồng Ngự nhưng phải hoạt động trong tình thế hết sức khó khăn.
Vào đầu tháng 5 năm 1969, hai tỉnh An Giang và Kiến Phong nhận được chỉ thị của Khu đưa bộ đội cùng với Ban Hòa Hảo vận và các cán bộ dân vận tiến xuống vùng Chữ O và qua Chợ Mới. Hai tỉnh được lệnh hợp đồng tiến công cùng lúc vào vùng xung yếu, vũ trang tuyên truyền phát động đồng bào tín đồ Hòa Hảo hướng về cách mạng. Cuộc hành quân mang danh nghĩa “bộ đội Huỳnh Sư Thúc” về thăm tín đồ, tuyên truyền đồng bào đoàn kết chống Mỹ - ngụy, bộ đội không đánh đồn bốt, chỉ đánh trả những lực lượng tiến công để bảo tồn lực lượng, giữ trung lập với ban quan quân của Lương Trọng Tường và vận động ban trị sự và nhân dân tự vệ giao súng cho cách mạng.
Huỳnh Sư Thúc, tức sư thúc Huỳnh Văn Trí, thường gọi là ông Mười Trí là anh em kết nghĩa với giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ. Trong kháng chiến chống Pháp. Ông là Chỉ huy trưởng chi đội 4 liên quân Bình Xuyên. Ông tập kết ra Bắc, là Thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Trở về Nam, ông được đưa về khu VIII tham gia trong Ban Hòa Hảo vận cùng với các đồng chí Tư An - Khu ủy viên, Ba Giảng, Tám Vị, Tư Râu, Mười Tôn, Bảy Tỉnh. Trong số này có những người vốn là tín đồ, cán bộ quân sự Hòa Hảo theo cách mạng. Các đồng chí tổ chức tại căn cứ B1 Phú Hữu của An Giang, một địa điểm thật trang trọng để Sư Thúc gặp đại diện Tổ Đình, các ban trị sự đạo, các tín đồ cao nhiên của đạo dặn dò việc đạo, việc nước. Thư của Huỳnh Sư Thúc được chuyển tới cô Năm Biên, em gái giáo chủ Huỳnh Phú Sổ ở Tổ Đình và đến nhiều vị cao niên, chức sắc của đạo. Lần lượt, các vị này đến thăm viếng Huỳnh Sư Thúc ở căn cứ B1. Tại đây, Sư Thúc nhắc nhở các tín đồ nhớ lời thầy tu tại gia, đoàn kết lương giáo, không nghe những lời sai trái, không cầm súng đi lính cho giặc, không làm việc xấu, hại đến con đường chân tu của đạo. Các vị chức sắc, tín đồ cao niên tiếp thu ý kiến của Sư Thúc một cách thành kính. Ai cũng hứa sẽ vận động bà con tín đồ làm theo. Từ những cuộc gặp gỡ ấy lan ra, trong lòng nhiều tín đồ Hòa Hảo đã có sự chuyển hóa gần gũi, hiểu biết cách mạng hơn. Huỳnh Sư Thúc đi theo cách mạng, kháng chiến chống Pháp và đi tập kết, ai cũng biết. Như vậy thì cách mạng và người kháng chiến không đối lập với đạo, cách mạng đâu phải là kẻ thù như lời tuyên truyền xuyên tạc của bọn địch và bọn cầm đầu phản động trong đạo. Những cuộc gặp có ý nghĩa ấy đã giúp cán bộ cách mạng dần dần trở lại bám được trong dân, xây dựng được nhiều cơ sở chính trị, binh vận trong đồng bào tín đồ nhiều xã ở tỉnh An Giang và huyện Chợ Mới, tỉnh Kiến Phong.
Tổng kết những đợt đưa bộ đội công tác vũ trang tuyên truyền ở vùng có đông đảo tín đồ Hòa Hảo. Đồng chí Nguyễn Minh Đường - Bí thư Khu ủy đã phát biểu, trình bày rõ nội dung chỉ đạo trong Nghị quyết của Thường vụ Khu ủy về công tác vận động cách mạng trong đồng bào tín đồ Hòa Hảo với các Tỉnh ủy An Giang và Kiến Phong như sau:
Ở khu ta, ngoài Đồng Tháp Mười đất rộng người thưa và những nơi dân cư đông đúc, quần chúng đã qua nhiều lần nổi dậy làm chủ xã, ấp còn có một số khu vực có hàng triệu đồng bào tôn giáo và dân tộc mà đa số là nông dân cũng bị áp bức, đau khổ như nông dân nơi khác. Họ có khả năng nổi dậy đánh đổ đế quốc và tay sai để giải phóng đất nước và tự cứu lấy mình.
Ở nhiều vùng trong ba tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc đại đa số đồng bào là tín đồ đạo Hòa Hảo, quần chúng ở những nơi đây bị hai hệ thống áp bức và kìm kẹp là đế quốc Pháp, Mỹ và bọn đứng đầu tôn giảo, phản động, làm tay sai cho địch. Mỹ - ngụy xem đây là vùng bình định quốc gia tương đối an toàn, chiến tranh không về tới. Sự áp bức bóc lột, kìm kẹp khắc nghiệt là của bọn côn đồ lưu manh thuộc lực lượng võ trang và ban trị sự các loại của các phe phái thuộc hai đảng Dân xã Ba Sao và Dân xã Chữ Vạn. Lực lượng vũ trang của Năm Lửa, Ba Cụt, Hai Ngoán, Nguyễn Giác Ngộ được bọn xâm lược Pháp dựng lên cát cứ từng vùng, thực hiện chia rẽ lương, giáo quyết liệt chống Việt Mai. Đồng bào bị khủng bố, cướp bóc, vơ vét, đôn quân bắt lính phục vụ chiến tranh xâm lược.
Lâu nay, tín đồ Hòa Hảo đa số là nông dân, bị đầu độc tư tưởng chống cộng, thù hận Việt Minh bằng sự kiện “Đức Thầy thọ nạn”. Họ cũng căm thù đế quốc, phong kiến, địa chủ ác bá, cường hào như nông dân ở các nơi khác. Họ cũng có tinh thần yêu nước, chống ách thống trị, áp bức của đế quốc, phong kiến đã gây đau khổ cho họ và cũng muốn nổi dậy đánh đổ bọn chúng để đổi đời.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, những nơi này là vùng trắng, không có cơ sở Đảng và nòng cốt cách mạng. Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, một số đảng viên hồi cư đã về vùng này lãnh đạo quần chúng nổi dậy đấu tranh.
Từ năm 1955-1959, do Mỹ - Diệm thực hiện chính sách khủng bố, tàn sát, bắt bớ, tù đày tín đồ và chức sắc Hòa Hảo, gây căm thù sâu sắc trong đạo Hòa Hảo, nên khi có cao trào Đồng khởi, tấn công và nổi dậy toàn Khu (1960), đồng bào tín đồ Hòa Hảo đã cùng với các tầng lớp nhân dân nổi dậy tấn công địch để làm chủ, diệt, làm tan rã địch ở nhiều xã, ấp. Nhưng do lãnh đạo Đảng bộ địa phương lúc ấy chưa chú trọng đúng mức đến việc đi sâu tổ chức vận động quần chúng tín đồ nổi dậy cầm súng và tiến công địch, giữ vững quyết tâm ở cơ sở mà ỷ lại vào lực lượng vũ trang bên ngoài, cho nên khi địch đưa lực lượng đến càn quét, khủng bố, đàn áp, lực lượng vũ trang rút đi thì đồng bào lại bị kìm kẹp trở lại.
Cuộc đấu tranh cách mạng để giải phóng miền Nam phải có sự đóng góp của đồng bào tín đồ Hòa Hảo, làm cho đồng bào hiểu rõ và tự giác đi theo Đảng, tự mình đứng lên làm cuộc cách mạng để giành thắng lợi từng bước, đánh đổ địch từng phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Mục tiêu trước mắt cần giành được phải là chính đồng bào tín đồ Hỏa Hảo tự đứng lên diệt ác ôn và làm tan rã địch ở cơ sở xã, ấp để giành quyền làm chủ, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, tấn công ba mặt quân sự, chính trị, binh vận, diệt và làm tan rã địch ở các nơi khác đã làm.
Nhiệm vụ hiện nay là phải tổ chức được càng nhiều cán bộ bí mật cùng ăn ở, làm việc với đồng bào tại chỗ để xây dựng cơ sở, bắt rễ trong quần chúng. Đồng thời có kế hoạch đưa lực lượng vũ trang tuyên truyền vào để tạo cơ hội cho quần chúng tiếp cận được với cách mạng, hỗ trợ cho công tác xây dựng cơ sở Đảng tại chỗ. Vì thế, lực lượng vũ trang tiến vào vùng Hòa Hỏa lần này dứt khoát không phải là một hành động quân sự tác chiến diệt địch đơn thuần mà phải có mục đích chính trị rõ rệt. Từ hoạt động của bộ đội cho đến hành động của cán bộ, đảng viên đều phải nắm vững mục đích đó và xuất phát từ tình hình thực tế ta, địch tại chỗ mà triển khai kế hoạch cho thích hợp.